Khi “đăng ký kết hôn trái pháp luật” không còn là tội hình sự”
- Chủ nhật - 26/11/2017 20:32
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Theo Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi), từ ngày 1/7/2016, hành vi “đăng ký kết hôn trái pháp luật” không bị coi là một tội để có thể xử lý theo Bộ luật Hình sự. Vậy, thời gian tới sẽ có những hình thức xử lý như thế nào đối với hành vi vi phạm này? Theo điều 149 Bộ luật Hình sự 1999, tội “đăng ký kết hôn trái pháp luật” được quy định: Người nào có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn biết rõ là người xin đăng ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng ký cho người đó, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật là nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; việc kết hôn là do nam và nữ tự nguyện quyết định; không bị mất năng lực hành vi dân sự. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định. Cụ thể: Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi 3 đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người từng làm cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nên việc đăng ký kết hôn giữa những người đồng giới cũng bị coi là hành vi “đăng ký kết hôn trái pháp luật”. Theo quy định trước đây, người có hành vi vi phạm tùy theo tính chất và mức độ có thể bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Nếu hành vi kết hôn trái pháp luật có đủ yếu tố cấu thành tội phạm sẽ bị xử lý theo các tội danh tương ứng của Bộ luật Hình sự. Trong đó, đối với tội danh đăng ký kết hôn trái pháp luật (điều 149 Bộ luật Hình sự) sẽ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ từ 3 tháng đến 2 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 1 đến 5 năm. Chỉ “chuyển hóa tội danh” Theo quy định mới, hành vi “đăng ký kết hôn trái pháp luật” không còn bị coi là một tội để có thể bị xử lý hình sự. Đối với hành vi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1/7/2016 mà sau thời điểm đó vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự 1999 để xử lý, trong đó có hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật. Trường hợp vụ án đã được xét xử và đã có bản án, quyết định của Tòa án thì không được căn cứ vào việc Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định tội danh để kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành về tội danh này hoặc đã chấp hành xong bản án thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 ngày 1/7/2016 để giải quyết. Nếu sau thời điểm 0 giờ 00 ngày 1/7/2016 mới bị phát hiện thì không khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội đăng ký kết hôn trái pháp luật mà áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo tội danh tương ứng. Theo đó, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật được chuyển hóa trong cấu thành tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật. Chương 22 (từ Điều 330 đến Điều 351) được bổ sung tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật. Theo đó, luật quy định: “Người nào có nhiệm vụ, quyền hạn mà thực hiện việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm”; “Phạm thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm: a) Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật cho 2 người trở lên; b) Giấy tờ về hộ tịch đã được cấp, đăng ký trái pháp luật được sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật; người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 1 năm đến 5 năm”. Như vậy, mặc dù tội danh “đăng ký kết hôn trái pháp luật” không còn tồn tại nhưng thực chất là người có chức trách thực hiện việc đăng ký kết hôn nếu có những vi phạm (dẫn tới việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật cho 2 người trở lên) thì vẫn bị xử lý hình sự với mức án phạt tương đương với quy định tại Bộ luật Hình sự 1999. Bên cạnh đó, việc xử lý hành chính vẫn theo Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 (có hiệu lực từ ngày 11/11/2013) Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tùy hành vi vi phạm mà mức phạt tiền thấp nhất là 300.000 đồng và cao nhất là 30.000.000 đồng (Điều 28 và Điều 48). Theo Hoàng Lan, Báo PNVN (HM)
|