TÀI LIỆU
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG
(Dành cho hội viên, phụ nữ)
Tái bản có bổ sung Năm 2018
|
Chuyên đề 1
SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT
- Tổ chức hái hoa dân chủ với các câu hỏi và gợi ý trả lời ở phần II (nội dung chính)
- Truyền thông viên có thể tìm hiểu lịch sử địa phương để bổ sung một số câu hỏi về địa phương, ví dụ:
+ Chi bộ Đảng đầu tiên ở xã (huyện) được thành lập khi nào? Ai là bí thư chi bộ đầu tiên?
+ Chi bộ Đảng đầu tiên đã lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương như thế nào?
+ Ai là nữ đảng viên đầu tiên của xã (huyện)?
+ Hiện nay ai là bí thư Đảng ủy xã nhà?
II. NỘI DUNG CHÍNH
Câu hỏi 1: Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập khi nào và do ai sáng lập? Nêu tóm tắt ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập vào ngày 3/2/1930 trên cơ sở hợp nhất của 3 tổ chức Cộng sản ở Việt Nam là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam; khẳng định mục tiêu, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam là kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tạo tiền đề và nhân tố quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Câu hỏi 2: Hãy nêu ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng ?
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thành quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 15 năm (1930 - 1945). Thắng lợi này là kết quả của sức mạnh đoàn kết dân tộc quyết tâm đấu tranh xóa bỏ sự thống trị, áp bức của đế quốc gần 100 năm và chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Câu hỏi 3: Hãy nêu vắn tắt ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) do Đảng lãnh đạo?
Ngày 2/9/1945: Với Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Chỉ 3 tháng sau, thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Việt Nam đã quyết tâm tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau 9 năm kháng chiến trường kỳ, chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là bằng chứng sinh động thể hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện đúng đắn và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, là tấm gương cổ vũ, động viên các dân tộc thuộc địa bị áp bức trên thế giới đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Câu hỏi 4: Nêu vắn tắt vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, giành độc lập, thống nhất đất nước trong giai đoạn 1954 - 1975?
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Việt Nam tạm thời chia làm 2 miền Nam - Bắc tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Ở miền Nam, từ cuối năm 1954, Mỹ dần thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Trong giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đồng thời tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, trải qua 20 năm bền bỉ, kiên cường, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc giành được nhiều thắng lợi to lớn: chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bước đầu được xác lập; đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ; làm tròn nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia; phát triển mạnh mẽ giáo dục, văn hoá, y tế; cải thiện nhiều mặt đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Tại miền Nam, thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30/4/1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân, độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam, kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi này đã mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam - thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội; đánh dấu sự mở đầu thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội.
Câu hỏi 5: Hãy nêu vắn tắt vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa giai đoạn 1976 - 1986?
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân cả nước bảo vệ và củng cố chính quyền nhân dân ở miền Nam, chiến đấu bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Campuchia; xây dựng một số cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hoàn thành những công trình trọng điểm về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt và giao thông, thủy lợi[1]; Từng bước đổi mới cơ chế quản lý, hình thành chủ trương chuyển đổi cơ chế quản lý, từ tập trung, bao cấp, quan liêu, hành chính sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Câu hỏi 6: Hãy nêu tóm tắt một số thành tựu của công cuộc Đổi mới (từ 1986 đến nay) dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối Đổi mới, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên 6 ở Việt Nam.
Sau gần 30 năm, từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển nhanh theo hướng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ XII, tính từ năm 1986 đến nay, tăng trưởng GDP (Tổng thu nhập quốc nội) bình quân của Việt Nam đạt 6,5%/năm và thuộc nhóm cao nhất thế giới, GDP bình quân đầu người trên 2,050 đô-la, vượt qua ngưỡng một nước chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ các hộ nghèo đói giảm từ 58% năm 1993 xuống còn dưới 7% năm 2017; Từ một nước thường xuyên thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới. Đến giữa năm 2018 đã có 3.370 xã đạt chuẩn Nông thôn mới, chiếm 37,76% tổng số xã. Tuổi thọ bình quân tăng, năm 2015 là 73,4 tuổi.
Một số thành tựu nổi bật là:
- Kinh tế tăng trưởng, phát triển, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đẩy mạnh, hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất quan trọng. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện.
- Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, những vấn đề về phát triển văn hóa, xã hội, con người có nhiều tiến bộ. Mức sống về vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân ở các khu vực ngày càng được nâng cao.
- Chính trị - xã hội ổn định. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam được củng cố và tăng cường.
- Quan hệ quốc tế ngày càng phát triển.
Câu hỏi 7: Hãy nêu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề bình đẳng giới, phong trào phụ nữ và công tác phụ nữ?
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm lãnh đạo công tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, vấn đề giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền đã được xác định là một trong những mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp cách mạng và khẳng định: Giải phóng phụ nữ phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò của lực lượng phụ nữ, quan tâm lãnh đạo thực hiện vận động phụ nữ tham gia sự nghiệp cách mạng và công tác xã hội, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ và xây dựng, phát triển tổ chức phụ nữ.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, luật pháp, chính sách về công tác phụ nữ:
- Quyết định 163-HĐBT (năm 1988) của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành bản quy định trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc đảm bảo cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.
- Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 1993) về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, với mục tiêu: “Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người phụ nữ, nâng cao địa vị xã hội, nâng cao nhận thức về quyền bình đẳng của phụ nữ”.
- Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư (năm 1994) về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới đã khẳng định: “Chống những biểu hiện lệch lạc coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ” và chủ trương “hình thành các chính sách để phát triển kỹ năng của phụ nữ, xây dựng kế hoạch tập huấn cho cán bộ nữ, tăng số phụ nữ có việc làm…”
- Luật Bình đẳng giới ngày 29/11/2006 khẳng định nguyên tắc “Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân”.
- Nghị định số 19/2003/NĐ-CP (năm 2003) của Chính phủ quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.
- Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2007) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định: “Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới”.
- Nghị định số 56/2012/NĐ-CP của Chính phủ (năm 2012) quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.
- Kết luận số 55-KL/TW của Ban Bí thư ngày 18/01/2013 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.
- Chỉ thị 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới, trong đó nội dung của Chỉ thị tiếp tục khẳng định: “Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của từng gia đình. Xây dựng và phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng...”. Chỉ thị 21-CT/TW là sự tiếp tục các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết 11- NQ/TW, song việc nhấn mạnh các nhiệm vụ trọng tâm với các giải pháp cụ thể chính là điểm mới cần được cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhận thức sâu sắc để triển khai một cách nghiêm túc và mạnh mẽ.
Chuyên đề 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHỤ NỮ VIỆT NAM
I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT
Cách 1:
- Truyền thông viên thuyết trình phần II (nội dung chính)
- Sau mỗi nội dung, hướng dẫn hội viên thảo luận các việc làm cụ thể để làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác.
Cách 2:
- Truyền thông viên kể một câu chuyện về Bác (xem phụ lục hoặc sưu tầm thêm ở sách, báo).
- Giới thiệu một nội dung trong phần II (nội dung chính) có liên quan đến câu chuyện vừa kể.
- Hướng dẫn hội viên thảo luận các việc làm cụ thể để làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách của Bác.
Cách 3:
- Truyền thông viên viết ra giấy một số câu nói hoặc lời căn dặn của Bác với phụ nữ.
- Mời một hội viên đọc hoặc truyền thông đọc.
- Hướng dẫn hội viên thảo luận cách thực hiện lời dặn của Bác.
II. NỘI DUNG CHÍNH
Câu hỏi 1: Hãy nêu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh là: Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta và dân tộc ta. Vấn đề phụ nữ, bình đẳng nam nữ được thể hiện ở tất cả các khía cạnh trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, từ vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, con người cho đến tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, phát triển kinh tế, văn hóa v.v.
Câu hỏi 2: Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm như thế nào về vai trò của phụ nữ và bình đẳng giới?
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của Phụ nữ: Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò và những cống hiến của phụ nữ Việt Nam trong cách mạng. Người khẳng định phụ nữ chính là lực lượng cách mạng to lớn, góp phần làm nên sức mạnh, thành công của mọi cuộc cách mạng xã hội. Phụ nữ không chỉ là lực lượng đông đảo của cách mạng, mà còn có khả năng làm được mọi việc không kém gì nam giới, họ có vai trò quyết định đến sự thành công của mọi cuộc cách mạng. Vì vậy, Người đã đặt niềm tin to lớn vào khả năng của phụ nữ: “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”[2].
Vấn đề phụ nữ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927). Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đặc biệt là sau khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, các phong trào yêu nước của phụ nữ Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời một tổ chức riêng của phụ nữ, đó là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Đây là một tổ chức chính trị - xã hội của một giới chưa từng có trong lịch sử dân tộc, một lực lượng cách mạng hùng hậu của chiến tranh nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong dịp kỷ niệm lần thứ 30 năm ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi nhận đóng góp quan trọng của tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đồng thời giao nhiệm vụ: “Hội Liên hiệp Phụ nữ phải là lực lượng mạnh mẽ giúp Đảng động viên, tổ chức và lãnh đạo phụ nữ tiến lên chủ nghĩa xã hội"[3].
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về bình đẳng giới: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phụ nữ bình đẳng với nam giới trên cả hai mặt: nghĩa vụ và quyền lợi, chị em thực sự trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh mình, cùng nam giới chung lo bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Người chỉ ra rằng: công bằng cho phụ nữ không có nghĩa là chia đều công việc cho họ mà công bằng chính là sự phân công một cách hợp lý công việc đến từng người, tùy theo khả năng, hoàn cảnh cá nhân và sức khỏe. Sự bình đẳng phải được thể hiện trên mọi mặt, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Về chính trị, bình đẳng về chính trị có nghĩa là người phụ nữ trước hết được trang bị về mặt lý luận, tạo điều kiện cho họ chủ động, tự tin, tự lực, tự cường, tự giải phóng cho chính họ; sau đó là sự đảm bảo cho họ quyền tham gia các hoạt động chính trị, trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách bình đẳng với nam giới; đồng thời, đảm bảo quyền ngôn luận, đi lại, bầu cử, ứng cử, cư trú và quyền bình đẳng trước pháp luật…
Về kinh tế, bình đẳng là thực sự tạo ra cơ hội cho người phụ nữ có việc làm, có thu nhập như nam giới, bình đẳng với nam giới trong quan hệ tài sản… Tư tưởng đó của Người đã được khẳng định trong Điều 5 Hiến pháp năm 1946: “Tất cả mọi công dân đều ngang quyền về kinh tế”.
Về lĩnh vực văn hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: sự dốt nát còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm, “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong lời kêu gọi chống nạn thất học tháng 10/1945, Người nói rõ: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ… Phụ nữ lại cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc chị em phải cố gắng để theo kịp nam giới, để xứng đáng mình là phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử”[4].
Người khẳng định học tập để nâng cao trình độ văn hoá sẽ giúp chị em nắm được những vấn đề lịch sử, địa lý, khoa học, tự nhiên, xã hội, chính trị, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân; Có văn hoá, một mặt chị em sẽ tự tin vươn lên làm chủ về mọi mặt một cách vững chắc, thoát khỏi sự lệ thuộc của những tư tưởng phong kiến hà khắc trói buộc, đồng thời có thể cống hiến tài năng, trí tuệ cho nhân loại và đất nước.
Về lĩnh vực xã hội, Người chỉ ra rằng, muốn thực hiện bình đẳng nam nữ trước hết là phải giải phóng phụ nữ ra khỏi những trói buộc của tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, ra khỏi sự bất công ngay từ trong gia đình họ. Người quan niệm vai trò của phụ nữ trong xã hội được thể hiện chính từ vai trò của họ trong gia đình vì gia đình chính là tế bào của xã hội. Do vậy, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và Luật Hôn nhân Gia đình. Người nhiều lần bày tỏ chính kiến trước công luận là phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến và đầu óc gia trưởng, tư tưởng tư sản, trọng nam khinh nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất tích cực đóng góp xây dựng Luật hôn nhân và gia đình và luôn theo dõi việc thực hiện đạo luật đó, vì theo Người, “Luật lấy vợ, lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phần nửa xã hội”. Người phê phán tình trạng chồng đánh vợ và khẳng định đây là tệ nạn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật, vi “Đàn ông là người công dân, đàn bà cũng là người công dân, dù là vợ chồng, người công dân này đánh người công dân khác tức là phạm pháp”.
Câu hỏi 3: Hãy nêu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ?
- Giải phóng phụ nữ là một nhiệm vụ tất yếu của cách mạng vô sản ở Việt Nam.
Theo Bác: “Nói phụ nữ là nói một nửa xã hội, nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một nửa”[5]. Trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc thực hiện cách mạng vô sản, đánh đổ chế độ thực dân phong kiến của những người cộng sản Việt Nam thì vấn đề giải phóng phụ nữ là nội dung tất yếu nằm trong xu thế chung của cách mạng, song đồng thời nó có một ý nghĩa đặc biệt đối với một giới mà hàng trăm năm nay chịu những đối xử, phân biệt bất công và bị bóc lột nặng nề.
Trong nhận thức tư tưởng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tách rời vấn đề giải phóng phụ nữ ra khỏi nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Người cũng ý thức sâu sắc giải phóng phụ nữ không chỉ là nhu cầu khách quan mà còn là cuộc cách mạng to và khó ngay cả sau khi đất nước đã tự do, độc lập.
- Giải phóng phụ nữ là sự nghiệp của bản thân phụ nữ, của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều quyết định cuối cùng cho công cuộc giải phóng phụ nữ lại chính là chị em. Chính sự tự thân vận động, sự nỗ lực vươn lên trong học tập và công tác của chính chị em phụ nữ mới có thể đưa đến sự thành công của công cuộc giải phóng phụ nữ. Bác đã nhiều lần nhắc nhở chị em phải có ý thức tự giải phóng mình, Người viết: “Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà mình phải tự cường, tự đấu tranh”. Đặc biệt, Bác căn dặn chị em phải biết vượt qua chính mình, khắc phục những hạn chế của chính chị em, quyết tâm học tập và vươn lên, Người viết: “Phụ nữ ta còn một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng của mình, nâng cao tinh thần tập thể đoàn kết, giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền”.
Giải phóng phụ nữ theo Hồ Chí Minh, không những là trách nhiệm của Đảng và chính quyền mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Người chủ trương giáo dục tất cả cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân có nhận thức đúng đắn về vai trò và địa vị phụ nữ trong xã hội, xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Câu hỏi 4: Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm thế nào về xây dựng đội ngũ cán bộ nữ và công tác phụ nữ?
Theo Bác, xây dựng đội ngũ cán bộ nữ và công tác cán bộ nữ là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Vì cán bộ nữ là người hiểu rõ nhất tâm tư tình cảm cũng như những khả năng, những hạn chế của chị em phụ nữ, từ đó tập hợp, tổ chức các chị em lại tham gia đông đảo, nhiệt tình vào các phong trào. Cán bộ nữ là sợi dây nối liền giữa Đảng, Nhà nước với các chị em phụ nữ, từ đó có thể đem những chủ trương chính sách của Đảng phổ biến tới quần chúng phụ nữ một cách dễ hiểu nhất, phản ánh những nguyện vọng, yêu cầu của đông đảo quần chúng tới các cấp lãnh đạo một cách đầy đủ nhất. Không chỉ quan tâm đến phụ nữ ở thành thị, Người còn lưu ý đến đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu vùng xa; yêu cầu các cấp lãnh đạo phải có chủ trương, biện pháp bảo vệ sức khoẻ phụ nữ.
Quan tâm đến công tác cán bộ nữ, Người rất chú trọng đến việc bồi dưỡng cho phụ nữ một cách nhìn mới, một nếp suy nghĩ mới để giúp chị em một mặt khắc phục được những nhược điểm của giới, mặt khác nhận thức được khả năng, trách nhiệm làm chủ của mình trong xã hội cả về mặt quyền lợi và nghĩa vụ. Người dặn dò chị em mở rộng giới hạn tình cảm gia đình ra một phạm vi rộng lớn hơn, gắn liền với tình yêu giai cấp, tình yêu đồng bào, tình cảm quốc tế vô sản.
Trong bài phát biểu tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ 3 năm 1961, Người nhấn mạnh: “Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm làm chủ đất nước, tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội”[6]. Người nhắc nhở: “Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xoá bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hoá, kỹ thuật”[7]; theo Bác, muốn làm cách mạng thì lòng mình, tư tưởng mình phải cách mạng.
Trong việc cất nhắc đề bạt phụ nữ, Người mong muốn: “Có cất nhắc phụ nữ nhưng chưa mạnh dạn, tức là còn phần nào chưa coi trọng trí tuệ, tài năng của phụ nữ. Vậy phụ nữ phải làm sao cho người ta thấy phụ nữ giỏi, lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh chị em công nhân sẽ cử mình lên”[8]. Mong muốn đó thể hiện yêu cầu đối với cán bộ quản lý là phải khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ nữ phát huy ưu điểm, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi phụ nữ phải thể hiện được năng lực, khả năng của mình.
Câu hỏi 5: Những nội dung chính trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?
Theo Bác, đạo đức cách mạng phải là phẩm chất đầu tiên, giống như “sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức…”[9]. Người cũng cho rằng “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”[10].
Những chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm:
- Trung với nước, hiếu với dân, quyết tâm phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
+ Cần là siêng năng, chăm chỉ, đúng giờ, chu đáo để không ngừng nâng cao năng suất lao động. Tục ngữ có câu “ Nước chảy, đá mòn” cho thấy cần sẽ đem đến hiệu quả, là đức tính cần có ở mỗi người. Người nghiêm khắc phê phán ”Người lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc”.
+ Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không lãng phí, không bừa bãi. Kiệm để tích trữ thêm vốn, mở rộng sản xuất.
+ Liêm là trong sạch, không tham lam. Người từng viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một tộc văn minh tiến bộ”.
+ Chính là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn, là thiện.
Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính không thể thiếu của mỗi con người, cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn phương, Người đã viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”.
+ Chí công vô tư là ham làm những việc ích quốc lợi dân, không ham danh lợi, không vì lợi ích cá nhân mà làm hại lợi ích dân tộc.
- Tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng: Người coi tình đoàn kết quốc tế, gắn kết giữa các dân tộc, các nước trên thế giới là điều thiêng liêng.
Câu hỏi 6: Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ?
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, trước hết là những biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng. Điều này dẫn đến tình trạng, nhiều người không có lý tưởng sống, không có chính kiến, khó phân biệt đúng sai. Bởi lý tưởng sống là mục tiêu hướng đến của mỗi con người, là động lực giúp con người vươn tới những hoài bão lớn, những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Nhờ có lý tưởng sống mà con người có thái độ tích cực trong nhận thức, quyết tâm trong ý chí và hành động. Người chỉ rõ những người “Nghe những lời bình luận không đúng, cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí nghe những lời phản cách mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ” thì cần phải chấn chỉnh, bởi thái độ sống và làm việc thiếu tích cực và thiếu trách nhiệm. Người khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng của việc chủ động, tự giác học tập nội dung chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà Nước. Bởi đó là những định hướng lớn, những vấn đề quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ của mỗi công dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ mỗi người cần tự giác phê bình và tự phê bình, tránh tình trạng phê phán người khác thì dễ còn bản thân mình không không muốn ai đụng chạm đến hoặc nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh: “Có đồng chí đáng phải trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang chỉ phê bình, cảnh cáo qua loa cho xong chuyện. Thậm chí có nơi còn che đậy cho nhau, tha thứ lẫn nhau, giấu giếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật như vậy làm cho các đồng chí không những không biết sửa lỗi mình mà còn khinh thường kỷ luật. Tai hại hơn nữa nếu kỷ luật của đoàn thể lỏng lẻo, những phần tử phản động sẽ có cơ hội chui vào hàng ngũ ta để phá hoại đoàn thể ta”.
Người phê phán những biểu hiện duy ý chí, áp dặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác: “Tự cho mình là cái gì cũng giỏi,việc gì cũng biết”. “Tự kiêu tức là cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được. việc gì mong cũng giỏi hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai”.
Người quyết liệt phê phán những lối sống ích kỷ, tư lợi, hủ hóa và gọi đó là các căn bệnh: “Bệnh hẹp hòi”, “Bệnh cận thị”, “Bệnh tham lam”. Ngay từ đầu năm 1948, khi nhà nước cách mạng còn hết sức non trẻ, gặp muôn vàn khó khăn, Người đã chỉ ra cần phải đấu tranh với những vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành. Người giải thích về “Địa phương chủ nghĩa”, đó là: “chỉ chăm chú lợi ích của địa phương mình mà không nhìn đến lợi ích của toàn bộ. Làm việc ở bộ phận nào chỉ biết bênh vực vun đắp cho bộ phận ấy. Do khuyết điểm ấy mà sinh ra những việc, xem qua thì như không quan hệ gì mấy, kỳ thực rất có hại cho kế hoạch chung”. Điều này không chỉ mỗi cá nhân trong tập thể mà còn nhắc nhở mỗi người trong cộng đồng nên nghĩ đến lợi ích chung để cùng xây dựng môi trường xã hội công bằng, lành mạnh, minh bạch, tránh tình trạng nhiều gia đình dọn sạch rác nhà mình đẩy ra đường để mặc ô nhiễm môi trường sống của cộng đồng xung quanh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm yêu cầu chống các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân; những biểu hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên… Người cũng kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với các đối tượng khác để trục lợi.
Nguyên nhân của những biểu hiên suy thoái có rất nhiều, nhưng chủ yếu là do chủ nghĩa cá nhân sinh ra. Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí. Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Người luôn coi trọng cả đức lẫn tài, trong đó đức là gốc. Nước lấy dân làm gốc, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, của con người. Cuộc đời và nhân cách của Người là tấm gương mẫu mực cho các thế hệ con cháu noi theo.
Câu hỏi 7: Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần đại đoàn kết?
Sinh thời, Người đã luôn nhắc nhở những bài thơ học về tinh thần yêu nước, về lịch sử nước nhà, lòng yêu quên hương, đạo lý làm người, tình đồng bào ruột thịt đùm bọc lẫn nhau đúng với truyền thống của dân tộc “máu chảy ruột mềm”.
Người khẳng định lực lượng cách mạng trước hết là khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm tất cả các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các đoàn thể, cá nhân yêu nước, các thành viên đều có điểm chung là thành tâm yêu nước.
Người chỉ ra rằng trong mối quan hệ đoàn kết thì sự thống nhất trong Đảng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của khối đoàn kết toàn dân và có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó là “ chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước…”[11].
Theo Hồ Chí Minh “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, muốn có khối đại đoàn kết toàn dân cần có sự tập hợp mọi tầng lớp nhân dân bằng cách giáo dục, thuyết phục, vận động tập hợp quần chúng thông qua các hình thức phù hợp. Người cũng nhắc nhở toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải thường xuyên tiến hành phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan, các đoàn thể, trên báo chí cho đến nhân dân; phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên; phê bình và tự phê trên tinh thần đồng chí, có lý có tình, giúp nhau cùng tiến bộ, trong đó tự phê phải là chính.
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh bao hàm cả việc không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
Câu hỏi 8: Hãy nêu một số nội dung cơ bản trong phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Phong cách dân chủ, quần chúng: Theo Hồ Chí Minh, không khí dân chủ thực sự trong nội bộ phải dược tạo ra bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Có như vậy, cấp dưới, quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến, “học hỏi sáng kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng”[12]. Những sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những người có sáng kiến càng thêm hăng hái làm việc. Phong cách dân chủ không chỉ khơi nguồn sáng tạo, phát huy tinh thần làm việc, cống hiến của cấp dưới và quần chúng trong các cơ quan, đơn vị mà ngay cả trong mỗi gia đình, mỗi cộng đồng cũng đều có ý nghĩa tương tự. Có như vậy mới phát huy được trí tuệ của tập thể, kinh nghiệm của nhiều người. Phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập trung, không phải dân chủ vô tổ chức.
Phong cách dân chủ yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải tin yêu, tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình và sửa chữa khuyết điểm của mình.
- Phong cách khoa học: Phong cách làm việc khoa học đòi hỏi khi xem xét và quyết định mọi việc đều phải điều tra, nghiên cứu, phân tích kỹ thông tin, quy trình. Người chỉ ra rằng: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao ? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”[13].
Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh là làm việc phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực; là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong thời gian ngắn nhất. Người từng nói: “Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải. Của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được…”[14].
Phong cách làm việc khoa học còn phải biết nhìn xa, trông rộng, không để mắc vào “Bệnh cận thị”[15], không vì lợi ích nhỏ mà tổn hại đến lợi ích lớn lao, lâu dài. Phong cách làm việc khoa học còn phải biết kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm để ngày càng tiến bộ.
- Phong cách nêu gương: Theo Hồ Chí Minh, phong cách nêu gương gắn liền với phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi người. Muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm, thống nhất trong lời nói và hành động, điều này sẽ mang lại được lòng tin và sự tôn trọng. Phong cách nêu gương không chỉ cần thiết đối với mỗi cán bộ, đảng viên mà trong mỗi gia đình, ông bà là tấm gương cho các cháu, cha mẹ phải là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương cho các em. Trong nhà trường, thầy cô giáo là tấm gương cho học trò. Trong cơ quan, cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới. Mỗi người đều phải tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân trở thành những tấm gương cho mọi người noi theo, có thế mới tăng thêm điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
Câu hỏi 9: Hội viên, phụ nữ cần làm gì để học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh?
1. Hội viên, phụ nữ cần rèn luyện:
- Rèn luyện các phẩm chất đạo đức: "Tự tin, Tự trọng, Trung hậu, Đảm đang", cụ thể là
+ Hiểu rõ lý do cần rèn luyện và nội dung của từng phẩm chất: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang.
+ Ở các vị trí công việc, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ 4; là tấm gương cho con cháu phát huy tinh thần hiếu học của dân tộc;
+ Xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân mình để phát huy các điểm mạnh, khắc phục các hạn chế trong quá trình phấn đấu, rèn luyện, phẩm chất đạo đức; luôn làm gương cho con và những người khác trong gia đình, cộng đồng về rèn luyện 4 phẩm chất đạo đức.
- Tiếp tục thực hành tiết kiệm theo Bác
+ Hưởng ứng đợt thi đua “Làm theo Bác, thực hành tiết kiệm giúp nhau giảm nghèo bền vững”, mỗi hội viên, phụ nữ chủ động tiết kiệm, tạo nguồn vốn cho chính gia đình mình và giúp những chị em đang gặp khó khăn trong cộng đồng để phát triển sản xuất. Chị em có thể tiết kiệm tại các chi/tổ phụ nữ nơi mình tham gia sinh hoạt; tại nhóm phụ nữ tiết kiệm tín dụng, các tổ/nhóm hùn vốn quay vòng do Hội chỉ đạo hoặc tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Ngoài tiết kiệm bằng tiền, chị em còn có thể tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất, công tác và trong sinh hoạt như tiết kiệm nguyên liệu sản xuất, tiết kiệm điện, nước, tiết kiệm thời gian bằng cách tham dự hội, họp đúng giờ, giảm ăn uống lãng phí trong tang ma, cưới hỏi...
+ Phát huy tinh thần yêu nước, tinh thần tự trọng, tự tôn dân tộc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân; tự giác chấp hành và vận động người thân trong gia đình, mọi người trong cộng đồng chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; quy định, quy ước, hương ước của địa phương, dòng tộc.
+ Cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, công việc; biết làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình và quê hương đất nước.
+ Phát huy truyền thống nhân hậu của người Việt Nam, sẵn sàng chia sẻ, động viên, giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, những người mắc tệ nạn, tội phạm đang hoà nhập cộng đồng để họ có thể khắc phục hoàn cảnh, vươn lên, phát triển kinh tế và có cuộc sống tốt.
+ Bồi đắp kiến thức, kỹ năng gắn kết các thành viên trong gia đình, vận động các thành viên trong gia đình tích cực học tập, lao động, sản xuất phát triển kinh tế, cùng nhau tạo dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc;
+ Hăng hái tham gia các phong trào, hoạt động tại cộng đồng; tham gia thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và các cuộc vận động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”…
2. Đối với một số nhóm phụ nữ cụ thể cần:
2.1. Nữ cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức:
- Không ngừng học hỏi, rèn luyện kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành; tích cực rèn luyện và xây dựng phương pháp, phong cách làm việc khoa học, hiệu quả, chuyên nghiệp; Chủ động xây dựng kế hoạch công việc khoa học, hiệu quả phù hợp với thực tiễn.
- Tự giác chấp hành và chủ động phổ biến cho người lao động, nhân dân các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống lại các biểu hiện tha hóa về đạo đức, nhân cách, lối sống trong gia đình, đơn vị và cộng đồng; Luôn có tinh thần nêu gương trong các phong trào thi đua yêu nước.
- Luôn có tinh thần đoàn kết, gắn bó để xây dựng tập thể vững mạnh; tạo điều kiện để mỗi cá nhân đều phát huy được thế mạnh của mình góp phần thúc đẩy đơn vị/tổ chức phát triển.
- Chủ động nắm bắt tình hình, diễn biến tâm tư của người lao động, nhân dân kịp thời phát hiện các vấn đề tiêu cực nảy sinh để tuyên truyền, vận động nhân dân không tham gia tụ tập, khiếu kiện đông người.
- Xây dựng kỹ năng quản lý thời gian, cân bằng cảm xúc, sự căng thẳng do áp lực công việc; Xây dựng nếp sống văn hóa trong gia đình, cơ quan, cộng đồng, xã hội.
2.2. Nữ công nhân, người lao động:
- Tự tin vào khả năng sáng tạo, năng lực chuyên môn trong công việc; luôn suy nghĩ, tìm cách cải tiến kỹ thuật, áp dụng thành tựu khoa học nâng cao năng suất lao động, có tác phong làm việc khoa học, hiệu quả.
- Khẳng định vai trò, vị trí trong công việc, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Chủ động tìm hiểu chính sách, pháp luật; tự giác chấp hành pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan, đơn vị; Không tham gia đình công, bãi công, biểu tình, khiếu kiện đông người.
- Xây dựng nếp sống văn hóa trong gia đình, cơ quan, cộng đồng, xã hội. Tích cực lao động để đóng góp vào thu nhập gia đình.
2.3. Nữ nông dân:
- Tự tin khẳng định vai trò chủ thể trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, chủ thể của chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Cần cù, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất. Tích cực học tập để lĩnh hội kiến thức mới, mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đúc rút những kinh nghiệm hay trong sản xuất, chăn nuôi.
- Trung thực trong sản xuất: Đảm bảo đúng quy trình, vệ sinh, an toàn thực phẩm để tăng giá trị chất lượng sản phẩm.
- Có lối sống mẫu mực, chấp hành nghiêm túc mọi quy định, quy ước, hương ước của làng xã.
- Sử dụng tiết kiệm, hợp lý tài nguyên đất, nước, các nguyên vật liệu sản xuất, tham gia bảo vệ môi trường.
2.4. Nữ thanh niên:
- Sống có mục tiêu, lý tưởng, hoài bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ nuôi dưỡng tinh thần khát khao cống hiến cho đất nước, cho tập thể, cho xã hội. Giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc, kiên định lý tưởng độc lập dân tộc.
- Tích cực học tập, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ của bản thân; Cần cù, sáng tạo trong lao động, công tác; Tích cực trang bị các kỹ năng mềm cần thiết như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng quản trị bản thân, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tổ chức công việc và quản lý thời gian, kỹ năng giải quyết vấn đề ...
- Rèn luyện bản lĩnh, vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã hội, xung kích trong các phong trào thi đua yêu nước.
- Biết sống vì mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác đặc biệt là các thành viên trong gia đình; là tấm gương cho các em nhỏ noi theo.
2.5. Nữ tiểu thương:
- Luôn năng động, quyết đoán, mạnh dạn đầu tư, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh; chủ động rèn luyện kỹ năng quản lý, tìm hiểu pháp luật, xu thế phát triển của xã hội và thời đại;
- Giữ uy tín, bán hàng có nguồn gốc, đảm bảo chất lượng, số lượng và giá cả; Nâng cao trách nhiệm xã hội, phát hiện, tố giác các đường dây buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng; Chủ động tham gia bảo vệ môi trường và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong quá trình kinh doanh;
- Ưu tiên tiêu thụ, kinh doanh, sử dụng các sản phẩm của Việt Nam; Thể hiện nét đẹp trong văn hóa kinh doanh: văn minh, lịch sự với khách hàng.
2.6. Phụ nữ có đạo:
- Xây dựng lối sống tốt đời đẹp đạo; thường xuyên theo dõi tin tức, thời sự, cập nhật thông tin để hiểu đúng, tôn trọng và chấp hành pháp luật, quy định của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương.
- Không tham gia tụ tập, khiếu kiện đông người; tích cực tuyên truyền vận động các tín đồ thực hiện nếp sống văn minh, bài trừ các hủ tục lạc hậu.
- Tích cực tham gia các hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế gia đình;
2.7. Phụ nữ đồng bào dân tộc thiểu số:
- Tích cực giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc; bài trừ các hủ tục lạc hậu, chấm dứt tình trạng hôn nhân cận huyết thống, tảo hôn.
- Tích cực học để sử dụng thành thạo tiếng phổ thông; động viên con cháu trong gia đình tích cực học tập, lao động sản xuất để phát triển kinh tế gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Chủ động rèn luyện năng lực bản thân, hướng tới sự tiến bộ.
2.8. Nhóm phụ nữ di cư trong nước:
- Tin vào khả năng, sức lao động, kinh nghiệm công việc của mình;
- Tham gia các hoạt động ở địa phương nơi chuyển đến, xây dựng mối quan hệ tốt với hàng xóm; duy trì mối quan hệ gia đình gắn bó với người thân ở quê hương (thăm hỏi, động viên cha mẹ; dạy dỗ, giáo dục con cái…);
- Biết tiết kiệm, chi tiêu hợp lý; chủ động nắm bắt các thông tin, nâng cao kỹ năng phòng, chống các tiêu cực của xã hội do di cư tác động.
2.9. Nhóm phụ nữ di cư ở nước ngoài:
- Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, không tham gia, hưởng ứng các hoạt động làm ảnh hưởng đất nước, đến mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và nước đang sinh sống;
- Tham gia xây dựng quê hương Việt Nam bằng nhiều hình thức: Tích cực học tập, nghiên cứu, lao động, sản xuất, kinh doanh…; Quảng bá, chia sẻ với bạn bè quốc tế về nét đẹp của quê hương và con người Việt Nam; Hỗ trợ, đầu tư các hoạt động phát triển tại quê hương;
- Tìm hiểu và tôn trọng luật pháp nước sở tại; Tích cực hỗ trợ, tham gia vào các hoạt động của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
2.10. Nhóm phụ nữ yếu thế (phụ nữ bị bạo lực, bị buôn bán, phụ nữ hoàn lương…):
- Tự tin, hòa đồng với mọi người; Nhận thức được giá trị của bản thân để tích cực rèn luyện, học tập, lao động, thể hiện vai trò của mình trong xã hội.
- Có ý thức phấn đấu vươn lên, tự giác rèn luyện bản thân, có lối sống lành mạnh; tích cực tìm sinh kế, chủ động tìm việc làm, tạo thu nhập cho bản thân và gia đình, giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ ổn định cuộc sống.
- Tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng, tham gia công tác tuyên truyền phòng ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội trong cộng đồng; Mạnh dạn tố cáo, ngăn chặn hoặc tìm sự trợ giúp nếu bản thân hoặc người xung quanh bị bạo hành, mua bán...
Chuyên đề 3
KHÁI QUÁT
VỀ PHONG TRÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT
Cách 1:
- Truyền thông viên thuyết trình phần II (nội dung chính)
- Truyền thông viên tìm hiểu để bổ sung vào bài thuyết trình các thông tin về những tấm gương phụ nữ tiêu biểu trong lịch sử của địa phương
Cách 2:
- Tổ chức hái hoa dân chủ với một số câu hỏi và gợi ý trả lời ở phần II (Nội dung chính)
- Truyền thông viên có thể tìm hiểu lịch sử địa phương để bổ sung một số câu hỏi về phong trào phụ nữ và những người phụ nữ nổi tiếng của địa phương, ví dụ:
+ Hãy kể một tấm gương phụ nữ tiêu biểu ở địa phương thời kỳ kháng chiến chống Pháp?
+ Hãy kể một tấm gương phụ nữ tiêu biểu ở địa phương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc?
+ Ở xã ta hiện nay có Mẹ Việt Nam Anh hùng hoặc nữ Anh hùng Lực lượng Vũ trang, Anh hùng Lao động nào đang còn sống? Hãy kể về thành tích của mẹ hoặc chị đó.
II. NỘI DUNG CHÍNH
Câu hỏi 1: Hãy nêu khái quát truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc?
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã xây dựng nên truyền thống “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào mùa xuân năm 40 sau Công nguyên đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia, đánh đuổi quân Đông Hán, giành quyền tự chủ cho đất nước, mở đầu thời kỳ đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm của dân tộc. Bà Triệu Thị Trinh lãnh đạo khởi nghĩa chống ách thống trị của nhà Ngô năm 248 với câu nói nổi tiếng ”Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Hình ảnh kiên cường, bất khuất của Nữ tướng Bùi Thị Xuân trong phong trào nông dân Tây Sơn thế kỷ 17 và tiếp theo là bà Ba Cai Vàng, bà Ba Đề Thám, bà Đinh phu nhân, cô Bắc, cô Giang trong phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX tiếp tục khẳng định truyền thống yêu nước, sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập dân tộc của phụ nữ Việt Nam.
Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam đã khẳng định phụ nữ Việt Nam là lực lượng quan trọng trong lao động sản xuất với những phẩm chất cần cù, đảm đang, thông minh, sáng tạo. Hình ảnh thường ngày về người phụ nữ Việt Nam cần cù lao động được ghi lại đậm nét trong lịch sử nước nhà: “sớm ra ruộng lúa, tối về nương dâu”, “vai vác cái cày, tay đuổi con trâu, cái cuốc cho lẫn cái gầu, con dao rựa phát đèo đầu gánh phân”… Nhiều ngành nghề sản xuất truyền thống được lưu truyền bằng những truyền thuyết, hình ảnh gắn liền với người phụ nữ như trồng dâu dệt lụa, làm gốm, trồng lúa… Trong từng giai đoạn lịch sử, đặc biệt vào những giai đoạn cam go của cách mạng giải phóng dân tộc, phụ nữ không chỉ lo đảm đương công việc sản xuất, tích trữ lương thực cho gia đình mà còn hăng hái sản xuất, vận chuyển lương thực, nhu yếu phẩm, đạn dược ra tiền tuyến.
Không chỉ là lực lượng quan trọng trong lao động sản xuất, phụ nữ còn có khả năng tham gia quản lý xã hội và tổ chức hậu cần, xây dựng hậu phương trong các cuộc kháng chiến như: Thái hậu Dương Vân Nga (thế kỷ X) đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích gia đình, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê, góp phần bảo vệ nền độc lập dân tộc, chiến thắng quân Tống xâm lược; Nguyên phi Ỷ Lan (thế kỷ XI) hai lần làm Nhiếp chính (thay vua điều hành triều đình), giữ hậu phương vững chắc để chồng (Vua Lý Thánh Tông) yên tâm đánh giặc và giúp con (Vua Lý Nhân Tông) sử dụng người tài, quản lý đất nước, giữ vững nền độc lập dân tộc; Bà Lý Thị Châu (Bà chúa Kho) vào thế kỷ XIII đã chỉ huy quân sĩ bảo vệ kho lương thực, nhu yếu phẩm, lo việc hậu cần cho binh sĩ, để chồng yên tâm ra trận mạc… Trong suốt hai cuộc kháng chiến cho đến khi hòa bình, đã xuất hiện nhiều phong trào thi đua sản xuất như “Sóng Duyên hải”, “Gió Đại Phong”, “Cờ Ba Nhất”, những “Cánh đồng năm tấn”, “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”... được phát động minh chứng cho truyền thống cần cù, tinh thần hăng say lao động, thông minh, sáng tạo của phụ nữ trên mặt trận sản xuất.
Phụ nữ Việt Nam vừa là người sáng tạo, vừa là người gìn giữ, bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc và lưu truyền các giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác như: Dân ca Nam bộ, Quan họ Bắc Ninh, chèo vùng đồng bằng Bắc bộ, dân ca Nghệ Tĩnh, tuồng và dân ca Trung bộ, các làn điệu dân ca, vũ hội của các dân tộc miền núi và trung du. Lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam đã ghi nhận những phụ nữ tài cao, học rộng, sáng tác văn học nghệ thuật, tham gia trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa như bà Nguyễn Thị Lộ, Bà Huyện Thanh Quan, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, thi sĩ Đoàn Thị Điểm…
Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Non song gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ…”.
Câu hỏi 2: Hãy nêu một số nét chính trong phong trào phụ nữ từ khi thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam?
- Phong trào phụ nữ từ khi thành lập Đảng đến Cách mạng tháng Tám (1930 - 1945):
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức phụ nữ lần lượt ra đời nhằm quy tụ sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam: Hội Phụ nữ Phản đế Đông Dương (1930), Hội Phụ nữ Dân chủ (1936), Đoàn Phụ nữ Cứu quốc (1941 - 1945).
Trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, phụ nữ là lực lượng đông đảo trong các cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành… đấu tranh đòi giảm sưu thuế và đòi quyền tự do dân chủ. Tại nhiều địa phương, phong trào phụ nữ phát triển mạnh mẽ cùng với phong trào cách mạng sôi nổi, phụ nữ đã tập hợp thành tổ chức với các tên gọi như: “Hội Phụ nữ giải phóng”, “Phụ nữ Hiệp Hội”. Trong cao trào cách mạng, nhiều phụ nữ đã trưởng thành như chị Nguyễn Thị Thập tham gia Xứ ủy Nam kỳ, chị Nguyễn Thị Hiếu - Tỉnh ủy viên Thái Bình…
Ở thời kỳ vận động dân chủ 1936 - 1939, phụ nữ tham gia đấu tranh công khai,tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ trương, đường lối đấu tranh cách mạng và công tác vận động phụ nữ của Đảng. Quần chúng phụ nữ được tập hợp trong những tổ chức phù hợp với ngành nghề và điều kiện sinh hoạt, trong đó “Hội Phụ nữ dân chủ” và “Hội Phụ nữ giải phóng” làm nòng cốt vận động, tập hợp các tầng lớp phụ nữ đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ và hòa bình. Trong thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền (1939 - 1945), “Hội Phụ nữ phản đế”, “Đoàn Phụ nữ cứu quốc”động viên phụ nữ gia nhập Mặt trận Việt Minh, tham gia các đội vũ trang tuyên truyền. Qua đấu tranh cách mạng, lực lượng phụ nữ đã từng bước trưởng thành, góp phần quan trọng trong Tổng Khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945.
Ngày 20/10/1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chính thức được thành lập trên cơ sở các tổ chức phụ nữ tiền thân và sau đó gia nhập Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế nhằm tranh thủ sự ủng hộ của phụ nữ quốc tế cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong giai đoạn này 2 tổ chức phụ nữ cùng song song tồn tại và hoạt động đến năm 1950, trước tình hình mới, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam hợp nhất thành một tổ chức, tạo nên sức mạnh đoàn kết các tầng lớp phụ nữ Việt Nam.
- Phong trào phụ nữ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954):
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng vừa được thành lập đã phải đối phó với tình thế khó khăn, “thù trong, giặc ngoài”. Các tầng lớp phụ nữ Việt Nam đã tích cực tuyên truyền và thực hiện cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; hăng hái hưởng ứng phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tích cực đóng góp trong “Tuần lễ vàng” và tham gia phong trào “Bình dân học vụ” xoá nạn mù chữ; gia nhập lực lượng dân quân tự vệ, tích cực tham gia đấu tranh với nhiều hình thức làm thất bại âm mưu bạo loạn, giữ vững thành quả cách mạng.
Hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã động viên các tầng lớp phụ nữ tích cực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ở vùng hậu phương, phụ nữ là lực lượng chủ yếu trong lao động sản xuất, bảo đảm đời sống nhân dân và đáp ứng nhu cầu “Hậu cần tại chỗ” phục vụ quân đội, góp phần chi viện tiền tuyến đánh thắng giặc Pháp. Trong vùng địch tạm chiếm, phụ nữ là lực lượng đấu tranh quan trọng, thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân tin tưởng vào đường lối kháng chiến của Đảng, tạo mọi điều kiện ủng hộ cuộc kháng chiến. Sự tham gia đông đảo của các tầng lớp phụ nữ trong sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã góp phần to lớn vào thắng lợi Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ngày 7/5/1954.
- Phong trào phụ nữ trong cách mạng dân tộc, dân chủ chống đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam (1954 - 1975):
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời dưới ách thống trị của đế quốc và tay sai. Thời kỳ này, Đảng đã lãnh đạo cả nước tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ cách mạng chiến lược: Miền Bắc tiến hành cách mạng XHCN, miền Nam tiếp tục cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Từ năm 1954 đến năm 1975, phong trào phụ nữ đã xác định những nội dung hoạt động phù hợp với đặc điểm tình hình cách mạng của hai miền Nam, Bắc.
Tại miền Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát động hàng ngàn cuộc đấu tranh chính trị lớn nhỏ, huy động nhiều tầng lớp phụ nữ tham gia biểu tình phản đối tội ác của Mỹ - Ngụy. Năm 1960, “Đội quân tóc dài” ra đời trong phong trào Đồng khởi ở Bến Tre và đã phát triển rộng khắp trong toàn miền Nam, thu hút hàng triệu chị em phụ nữ tham gia vào cả “ba mũi giáp công” (đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận), góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Phong trào phụ nữ Miền Nam đã vinh dự được Trung ương Đảng tặng 8 chữ vàng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” .
- Phong trào phụ nữ trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ, cứu nước ở miền Bắc (1954 - 1975):
Năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bắt tay vào cách mạng XHCN, xây dựng CNXH, làm nhiệm vụ chi viện của “hậu phương lớn” cho “tiền tuyến lớn”.
Năm 1961, Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ II đã tổng kết những hoạt động chủ yếu của phong trào phụ nữ và thông qua Nghị quyết về những nhiệm vụ lớn của phong trào phụ nữ trong giai đoạn mới của cách mạng.
Từ năm 1961 đến 1965, phụ nữ hăng hái hưởng ứng “Phong trào thi đua 5 tốt” do Trung ương Hội LHPN Việt Nam phát động với các nội dung: 1. Đoàn kết sản xuất tiết kiệm tốt, 2. Chấp hành chính sách tốt, 3. Tham gia quản lý tốt, 4. Học tập chính trị, văn hóa, kỹ thuật tốt, 5. Xây dựng gia đình nuôi dạy con tốt.
Tháng 3/1965, Trung ương Hội LHPN Việt Nam phát động phong trào “Ba đảm đang”với nội dung: Đảm đang sản xuất thay chồng con đi chiến đấu, đảm đang gia đình để chồng con yên tâm công tác, đảm đang sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết. Phong trào nhằm động viên phụ nữ tích cực sản xuất và công tác, đảm đang trong gia đình để chồng con lên đường chiến đấu. Phụ nữ tại các địa phương đã thực hiện “Tay búa, tay súng”, “Tay cày, tay súng” trong sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu quyết tâm hoàn thành xuất sắc kế hoạch nhà nước. Phụ nữ tham gia ngày càng nhiều trong công tác quản lý, lãnh đạo (từ tổ, đội sản xuất, hợp tác xã, nhà máy và hệ thống quản lý hành chính) chị em không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, nâng cao năng lực để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Phong trào “Ba đảm đang” được thực hiện từ năm 1965 đến 1975 đã động viên kịp thời các tầng lớp phụ nữ hăng hái lao động sản xuất và công tác, chăm lo gia đình, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, thiết thực góp phần vào thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Năm 1974, Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IV đã đề ra những nhiệm vụ của phong trào phụ nữ cả nước trong nhiệm kỳ, với nội dung chủ yếu: Xây dựng người phụ nữ XHCN, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam và cải tiến chỉ đạo, chuyển mạnh phương thức hoạt động của Hội.
- Phong trào phụ nữ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1975 - 1986):
Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập thống nhất, thực hiện xây dựng CNXH. Cùng với nhân dân, phụ nữ cả nước tích cực tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới của Cách mạng Việt Nam, năm 1976, Hội nghị hợp nhất tổ chức phụ nữ 2 miền Nam - Bắc đã quyết định thống nhất 2 tổ chức phụ nữ ở 2 miền thành Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và lấy ngày 20/10/1930 là ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Từ năm 1978, Trung ương Hội LHPN Việt Nam đã phát động phong trào thi đua “Người Phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, thực hiện “Giỏi việc nước, đảm việc nhà, phấn đấu thực hiện nam nữ bình đẳng”. Chị em thi đua lao động sản xuất, công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, tích cực chăm lo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Phong trào được duy trì khoảng 10 năm, đã góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị và quyền dân chủ, bình đẳng, chăm lo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
- Phong trào Phụ nữ trong công cuộc đổi mới đất nước (1986-2022):
Từ năm 1989, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã phát động phụ nữ cả nước hưởng ứng hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” và “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học”. Chị em đã phát huy truyền thống đoàn kết, tương trợ trong lao động sản xuất, tổ chức tốt cuộc sống gia đình, phấn đấu nâng cao trình độ về mọi mặt, tích cực tham gia trong các lĩnh vực xã hội, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và đổi mới đất nước.
Năm 1992, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ VII đã cụ thể hóa các nội dung hoạt động thành “5 chương trình trọng tâm”. Qua 5 năm thực hiện (1992 - 1997), 5 chương trình trọng tâm được các tầng lớp phụ nữ trong cả nước tích cực hưởng ứng, được Đảng, chính quyền các cấp đánh giá là thiết thực, hiệu quả, góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Năm 1997, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII (1997 - 2002) khẳng định tiếp tục thực hiện 5 chương trình trọng tâm. Đại hội phát động phụ nữ cả nước thực hiện hai phong trào thi đua yêu nước: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc”,“Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”.
Năm 2002, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đã phát động phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ với 6 chương trình hoạt động trọng tâm của phong trào phụ nữ giai đoạn 2002 - 2007.
Năm 2007, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ X tiếp tục phát động các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn kết với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đại hội đã đề ra mục tiêu, 6 nhiệm vụ, giải pháp của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhiệm kỳ 2007 - 2012.
Năm 2012, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đã phát động các tầng lớp phụ nữ tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với đẩy mạnh thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đại hội đã xác định mục tiêu, với 3 khâu đột phá và 6 nhiệm vụ trọng tâm của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Trong nhiệm kỳ này, các cấp Hội triển khai tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ rèn luyện phẩm chất đạo đức của phụ nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang.
6 nhiệm vụ trọng tâm:
Nhiệm vụ 1: Tuyên truyền, giáo dục, vận động phụ nữ thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách; rèn luyện phẩm chất đạo đức; nâng cao trình độ, nhận thức.
Nhiệm vụ 2: Vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia xây dựng gia đình hạnh phúc.
Nhiệm vụ 3: Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường.
Nhiệm vụ 4: Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện và giám sát luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.
Nhiệm vụ 5: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh.
Nhiệm vụ 6: Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế.
3 khâu đột phá:
1. Tuyên truyền, giáo dục, vận động phụ nữ thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách; rèn luyện phẩm chất đạo đức; nâng cao trình độ, nhận thức.
2. Vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.
3. Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường.
Năm 2017, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XII đã phát động các tầng lớp phụ nữ tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với đẩy mạnh thực hiện đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong nhiệm kỳ này, các cấp Hội tiếp tục triển khai tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ thực hiện các tiêu chí của 2 cuộc vận động “Rèn luyện phẩm chất đạo đức Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” và “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”. Đại hội lần thứ XII đã xác định 7 chỉ tiêu, 2 khâu đột phá và 3 nhiệm vụ trọng tâm của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhiệm kỳ 2017 - 2022.
- Nhiệm vụ 1: Tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện, xây dựng gia đình hạnh phúc.
- Nhiệm vụ 2: Vận động, hỗ trợ phụ nữ sáng tạo khởi nghiệp, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường.
- Nhiệm vụ 3: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; thực hiện giám sát, phản biện xã hội; đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân.
2 khâu đột phá trong nhiệm kỳ 2017 - 2022, đó là:
Khâu đột phá thứ nhất: Nâng cao hiệu quả thực chất công tác giám sát, phản biện xã hội, tham mưu đề xuất chính sách góp phần giải quyết các vấn đề thiết thân của phụ nữ.
Khâu đột phá thứ hai: Nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động Hội cơ sở; đa dạng hóa các hình thức tập hợp phụ nữ; phát huy quyền làm chủ của hội viên, phụ nữ.
Câu hỏi 3: Từ khi thành lập đến nay, Hội LHPN Việt Nam đã trải qua bao nhiêu kỳ đại hội ? Nêu tên Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam trong từng nhiệm kỳ?
Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức vào năm 1950 (nhiệm kỳ 1950-1956) tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Từ đó đến nay, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức thành công 12 kỳ Đại hội. Các Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam qua các nhiệm kỳ là:
+ Khoá I (Nhiệm kỳ 1950 - 1956): Bà Lê Thị Xuyến
+ Khoá II (Nhiệm kỳ 1956 - 1961): Bà Nguyễn Thị Thập
+ Khoá III (Nhiệm kỳ 1961 - 1974): Bà Nguyễn Thị Thập
+ Khoá IV (Nhiệm kỳ 1974 - 1982): Bà Hà Thị Quế
+ Khoá V (Nhiệm kỳ 1982 - 1987): Bà Nguyễn Thị Định
+ Khoá VI (Nhiệm kỳ 1987 - 1992): Bà Nguyễn Thị Định
+ Khoá VII (Nhiệm kỳ 1992 - 1997): Bà Trương Mỹ Hoa
+ Khoá VIII (Nhiệm kỳ 1997 - 2002): Bà Trương Mỹ Hoa (năm 1997) và Bà Hà Thị Khiết (1998 - 2002)
+ Khoá IX (Nhiệm kỳ 2002 - 2007): Bà Hà Thị Khiết
+ Khoá X (Nhiệm kỳ 2007 - 2012): Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa
+ Khoá XI (Nhiệm kỳ 2012 - 2017): Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa
+ Khóa XII (Nhiệm kỳ 2017 - 2022): Bà Nguyễn Thị Thu Hà
Chuyên đề 4
KHÁI QUÁT VỀ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT
Cách 1:
- Truyền thông viên thuyết trình phần II (nội dung chính)
- Truyền thông viên hướng dẫn thảo luận về những việc phụ nữ cần làm để cùng Hội LHPN Việt Nam thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
Cách 2:
- Tổ chức hái hoa dân chủ với một số câu hỏi và gợi ý trả lời ở phần II (Nội dung chính)
- Truyền thông viên hướng dẫn thảo luận về những việc phụ nữ cần làm để cùng Hội LHPN Việt Nam thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
II. NỘI DUNG CHÍNH
Câu hỏi 1: Hội LHPN Việt Nam có vị trí như thế nào trong hệ thống chính trị nước ta?
Hội LHPN Việt Nam là một trong 5 tổ chức chính trị - xã hội[16], là bộ phận của hệ thống chính trị. Hội LHPN Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Điều 9 Hiến pháp 2013 quy định về Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam như sau:
- Là tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Khoản 2).
- Tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (Khoản 1).
- Hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (Khoản 3).
- Được Nhà nước tạo điều kiện hoạt động (Khoản 3).
- Trung ương Hội LHPN Việt Nam có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Khoản 1 Điều 84).
Câu hỏi 2: Hội LHPN Việt Nam có những chức năng, nhiệm vụ gì?
Tùy từng giai đoạn lịch sử cụ thể, Hội LHPN Việt Nam đề ra chức năng, nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu của Cách mạng Việt Nam, nhưng xuyên suốt là đại diện chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều lệ Hội LHPN Việt Nam nhiệm kỳ 2017-2022 đã đề ra chức năng, nhiệm vụ của Hội như sau:
- Chức năng:
+ Đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước.
+ Đoàn kết, vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
- Nhiệm vụ:
+ Tuyên truyền, giáo dục phụ nữ về chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc;
+ Vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần và xây dựng gia đình hạnh phúc;
+ Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới;
+ Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;
+ Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
Câu hỏi 3: Hội LHPN Việt Nam có mối quan hệ thế nào với các tổ chức phụ nữ và các tổ chức quốc tế trên thế giới?
Hiện nay, Hội LHPN Việt Nam có mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với trên 300 tổ chức tại hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm:
- Quan hệ với Hội Phụ nữ, các tổ chức phụ nữ và các tổ chức hoạt động về phát triển, bình đẳng giới và phụ nữ ở các nước láng giềng (Lào, Campuchia, Trung Quốc); các nước bạn bè truyền thống với Việt Nam (Cuba, Triều Tiên, Nga…); các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN);
- Quan hệ với các tổ chức ở các nước khác như Úc, Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, Canađa, Đức, Tây Ban Nha, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sỹ, Thụy Điển…; với các cơ quan Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
- Tính đến tháng 5/2018:
+ 10/10 tỉnh giáp với Lào, 9/10 tỉnh giáp với Campuchia đã ký kết Thỏa thuận hợp tác giữa Hội Phụ nữ 2 nước.
+ 5/7 tỉnh giáp với Trung Quốc đã ký kết hợp tác với Trung Quốc.
Hội là thành viên tích cực, có trách nhiệm của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế (WIDF) từ năm 1946, Liên đoàn các Tổ chức Phụ nữ ASEAN (ACWO) từ năm 1996 và tham gia một số cơ chế hợp tác khác trong ASEAN. Năm 2014, Trung tâm Phụ nữ và Phát triển thuộc Hội đã tham gia Quy chế tư vấn tại Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên Hợp Quốc (ECOSOC) góp phần tăng cường tiếng nói và sự tham gia của Hội tại Liên hợp quốc và các diễn đàn quốc tế. Thông qua các hình thức hợp tác ngày càng đa dạng, Hội đã thể hiện tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế của nhân dân Việt Nam; góp phần đưa hình ảnh của Việt Nam, của Hội và phụ nữ Việt Nam tới bạn bè quốc tế; học hỏi kinh nghiệm, tranh thủ sự ủng hộ và hỗ trợ của quốc tế đối với Việt Nam, phụ nữ Việt Nam và các hoạt động của Hội; đồng thời đóng góp cho phong trào phụ nữ thế giới vì mục tiêu bình đẳng, phát triển và hòa bình.
Câu hỏi 4: Hãy nêu tóm tắt về hệ thống tổ chức của Hội LHPN Việt Nam? Phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.
Hệ thống Hội LHPN Việt Nam gồm 4 cấp:
- Trung ương;
- Tỉnh, thành phố trực thuộc Tung ương và tương đương (gọi chung là cấp tỉnh)
- Huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương (gọi chung là cấp huyện)
- Xã, phường, thị trấn và tương đương (gọi chung là cấp cơ sở). Hội LHPN cấp cơ sở quyết định thành lập các chi hội; dưới chi hội có thể thành lập tổ phụ nữ
Phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam được hiểu là các cách thức Hội LHPN Việt Nam vận dụng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Các phương thức đang thực hiện gồm:
- Tham mưu, đề xuất với cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp về công tác phụ nữ vừa đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp cấp, các ngành về công tác phụ nữ vừa phát huy vai trò nòng cốt của Hội trong công tác phụ nữ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để làm tốt công tác tham mưu đề xuất, yêu cầu Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp căn cứ vào Quy chế làm việc định kỳ xây dựng kế hoạch làm việc với cấp ủy; kịp thời báo cáo tình hình phong trào phụ nữ và hoạt động Hội, báo cáo những vấn đề lớn, đột xuất với cấp uỷ. Đây cũng là dịp để các cấp uỷ Đảng đánh giá và chỉ đạo đinh hướng về công tác phụ nữ và hoạt động Hội. Do đó, đòi hỏi cán bộ Hội cần chủ động, tự tin, kiên trì thuyết phục.
- Phối hợp với chính quyền và các ngành, đoàn thể: Nhằm thúc đẩy việc thực hiện công tác phụ nữ trong tất cả các cấp, các ngành, thu hút sự quan tâm, ủng hộ của toàn xã hội đối với công tác phụ nữ đồng thời cũng nhằm thực hiện nhiệm vụ của Hội trong các lĩnh vực có liên quan; để thực hiện phương thức phối hợp có hiệu quả, căn cứ vào Chủ trương của Đảng, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã ký kết các chương trình phối hợp hoạt động với chính quyền, các ngành, đoàn thể trên nguyên tắc phối hợp, tạo điều kiện thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đồng thời phát huy tính độc lập, năng động sáng tạo của các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
- Chỉ đạo trong hệ thống Hội: Mọi hoạt động của Hội được chỉ đạo, thực hiện thông suốt theo 2 chiều từ Trung ương xuống cơ sở và ngược lại từ cơ sở lên Trung ương. Trong mối quan hệ đó, Trung ương định hướng chủ trương, nhiệm vụ lớn từ đó chỉ đạo, hướng dẫn để Hội Phụ nữ các cấp chủ động tổ chức thực hiện các hoạt động, tránh tình trạng thụ động, ỷ lại. Trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động, Hội Phụ nữ cấp dưới phản ánh, phản hồi những vấn đề nảy sinh, từ đó đề xuất để cấp trên điều chỉnh chủ trương cho phù hợp. Như vậy, có thể nói, trong nội bộ hệ thống Hội, mối quan hệ các cấp Hội là quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên đối với cấp dưới và quan hệ phản hồi, đề xuất của cấp dưới đối với cấp trên.
- Vận động xã hội: Đây là một phương thức hoạt động nhằm phát huy nội lực của phụ nữ và huy động các cá nhân, tổ chức trong, ngoài nước tham gia vào việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết các vấn đề liên quan tới phụ nữ. Đây là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa sự huy động các lực lượng xã hội tham gia vào công tác phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới.
Dựa vào những qui định của pháp luật, các cấp Hội chủ động vận động các nguồn lực xã hội để góp phần xã hội hóa công tác phụ nữ, tăng hỗ trợ về chuyên môn, nghiệp vụ, tài chính… cho hoạt động của Hội.
Câu hỏi 5: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện giám sát và phản biện xã hội như thế nào?
Theo Hướng dẫn số 23/HD-ĐCT ngày 4/5/2018 về việc thực hiện giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện các nội dung các văn bản:
- Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”;
- Quyết định số 99-QĐ/TW ngày 03/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về việc ban hành hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức Đảng trực thuộc trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;
- Quy định số 124-QĐ/TW ngày 02/02/2018 của Ban Bí thư về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ đảng viên;
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện giám sát và phản biện xã hội bằng các nội dung, cụ thể:
1. Thực hiện giám sát:
1.1. Nôi dung giám sát:
- Việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên phụ nữ, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ được quy định trong các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia).
- Các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
- Việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức công vụ và đạo đức nghề nghiệp của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, cán bộ, đảng viên.
1.2. Hình thức giám sát
- Thông qua việc quan sát, tìm hiểu, giao tiếp với người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên.
- Thông qua tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo, thông tin báo cáo, phản ảnh của các tổ chức, cá nhân, đoàn viên, hội viên, phụ nữ, phản ánh của người có uy tín trong cộng đồng dân cư, dư luận xã hội, cơ quan truyền thông đại chúng.
- Thông qua nghiên cứu, xem xét văn bản, tài liệu, báo cáo của các cơ quan, tổ chức liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên phụ nữ.
- Thông qua việc thực hiện các quy định pháp luật về dân chủ ở cơ sở, tham gia hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
- Tổ chức đoàn giám sát do Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp chủ trì.
- Thực hiện giám sát theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Tham gia các hoạt động giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, bộ, ngành…).
2. Thực hiện phản biện xã hội:
2.1. Phương pháp phản biện xã hội
(1) Tổ chức hội nghị Ban Chấp hành: cấp nào phản biện xã hội thì tổ chức hội nghị ban chấp hành cấp đó. Khi tổ chức hội nghị phản biện xã hội cần mời đại diện của cơ quan, tổ chức yêu cầu phản biện xã hội.
(2) Tổ chức lấy ý kiến phản biện của hội viên phụ nữ thông qua sinh hoạt chi/tổ Hội; lấy ý kiến của một số cấp hội; gửi văn bản dự thảo đến các cơ quan/tổ chức/cá nhân có liên quan để lấy ý kiến phản biện.
(3) Khi cần thiết, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp có thể tổ chức đối thoại trực tiếp với cơ quan, tổ chức có văn bản dự thảo.
2.2. Quy trình tổ chức phản biện xã hội
Bước 1: Xây dựng kế hoạch phản biện xã hội phù hợp với kế hoạch, yêu cầu phản biện của cơ quan, tổ chức cần phản biện.
Bước 2: Thu thập những thông tin phù hợp với đối tượng và nội dung phản biện xã hội. Sau đó, sắp xếp, tổng hợp thông tin theo các nội dung phản biện xã hội.
Các phương pháp thường sử dụng để thu thập thông tin là: nghiên cứu văn bản, tài liệu, tổ chức tọa đàm, hội thảo, hội nghị đóng góp ý kiến, bảng hỏi, gửi văn bản lấy ý kiến, khảo sát thực tế...
Đối với những vấn đề chuyên sâu, Hội có thể tham khảo ý kiến các nhà khoa học, chuyên gia, các cơ quan, tổ chức nghiên cứu...
Bước 3: Viết văn bản phản biện xã hội trên cơ sở thông tin đã sắp xếp, phân loại theo các nội dung phản biện xã hội. Văn bản phải có chữ ký của người có thẩm quyền và đóng dấu, gửi đến cơ quan tổ chức yêu cầu phản biện
Lưu ý: nếu cơ quan, tổ chức có văn bản dự thảo yêu cầu, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp cần bảo đảm bí mật nội dung thông tin phản biện xã hội.
Bước 4:
- Theo dõi việc tiếp thu ý kiến phản biện xã hội của cơ quan, tổ chức yêu cầu phản biện xã hội.
- Nếu cơ quan, tổ chức yêu cầu phản biện xã hội không tiếp thu ý kiến phản biện xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ được yêu cầu phản biện xã hội có thể yêu cầu tổ chức đối thoại.
Câu 6: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền như thế nào?
Theo Quyết định số 1408/QĐ-ĐCT ngày 4/5/2018 về “Quy định về việc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” và phát huy vai trò của cán bộ, hội viên, phụ nữ trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” nhằm thực hiện các nội dung các văn bản:
- Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”;
- Quyết định số 99-QĐ/TW ngày 03/10/2017 của Ban Bí thư về việc ban hành hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức Đảng trực thuộc trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;
Hội LHPN Việt Nam tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền với các nội dung sau:
I. Góp ý xây dựng Đảng:
1. Nội dung góp ý:
1.1. Góp ý với tổ chức đảng:
- Dự thảo nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy chế, quy định, kết luận....của Đảng có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi lịch hợp pháp, chính đảng của phụ nữ, chức năng, nhiệm vụ của Hội; dự thảo báo cáo chính trị của cấp ủy, tổ chức đảng trước mỗi kỳ đại hội; dự thảo các chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn, quy chế, quy định...của Đảng để cụ thể hóa nội dung Nghị quyết TW 4 khóa XII; dự thảo các văn bản pháp luật của Nhà nước để thể hóa nội dung Nghị quyết TW 4 khóa XII.
- Việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đảng, cấp ủy, tổ chức đảng; tập trung góp ý triển khai, thực hiện Nghị quyết TW 4 kháo XII.
- Mối quan hệ giữa cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên với tổ chức Hội, cán bộ, hội viên, phụ nữ.
1.2. Góp ý với đảng viên:
a. Thực hiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
b. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên.
c. Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng; việc thực hiện cám kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên.
d.Trách nhiệm thực thi công vụ; thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên; mối quan hệ giữa đảng viên với hội viên, phụ nữ.
2. Phương pháp góp ý:
2.1. Góp ý định kỳ
a. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ trì tổ chức góp ý bằng băn bản mỗi năm một lần trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ chức đảng và trước khi kết thúc nhiệm kỳ của cấp ủy cùng cấp.
b. Tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy ở địa phương với hội viên, phụ nữ mỗi năm một lần.
c. Tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội viên, phụ nữ nơi cư trú (thôn, xóm, tổ dân phố) đối với cán bộ, đảng viên mỗi năm một lần.
d. Thông qua hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; kiểm điểm hằng năm; kiểm điểm tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và cá nhân theo Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII; khi chuẩn bị làm quy trình đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu đề cử, ứng cử đối với cán bộ, đảng viên.
2.2. Góp ý thường xuyên
a. Thông qua hòm thư góp ý xây dựng Đảng được đặt công khai tại trụ sở các cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ cùng cấp; hệ thống thư điện tử, số điện thoại đường dây nóng.
b. Thư góp ý gửi đến cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp.
c. Thông qua tiếp xúc trực tiếp của cán bộ, đảng viên.
d. Thông qua tiếp xúc cử tri.
e. Thông qua gửi văn bản góp ý.
f. Hội viên phụ nữ trực tiếp gặp lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp để phản ánh.
2.3. Góp ý đột xuất
a. Góp ý các văn bản dự thảo do cấp ủy, tổ chức đảng gửi đến cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp hoặc đăng công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
b. Góp ý khi có yêu cầu hoặc khi Hội thấy cần thiết.
c. Góp ý khi đại diện tổ chức đảng làm việc với Hội Liên hiệp Phụ nữ cùng cấp.
II. Góp ý xây dựng chính quyền:
1.Nội dung góp ý:
1.1. Góp ý với cơ quan, tổ chức:
a. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
b. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật.
c. Việc thực hiện cải cách hành chính; phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.
d. Việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về dân chủ ở cơ sở; công tác tiếp dân và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân.
1.2. Góp ý với cá nhân
a. Việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ công dân.
b. Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trách nhiệm nêu gương, trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức, đại biểu dân cử, sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang; nhất là người đứng đầu cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp.
2. Phương pháp góp ý
2.1. Góp ý định kỳ
a. Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp góp ý bằng văn bản mỗi năm một lần đối với các nội dung nêu tại Điều 10 Quy định này cho các đối tượng góp ý cùng cấp.
b. Tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu chính quyền các cấp với hội viên, phụ nữ mỗi năm một lần.
c. Tổ chức lấy ý kiến tại hội nghị hội nghị công chức, viên chức( đối với cơ quan, đơn vị) và hội nghị hội viên, phụ nữ (chủ yếu ở xã, phường, thị trấn) mỗi năm một lần.
2.2. Góp ý thường xuyên
a. Thông qua hòm thư góp ý xây dựng chính quyền đặt công khai tại trụ sở.
b. Thư góp ý gửi đến cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp hoặc gửi trực tiếp đến cơ quan chính quyền.
c. Thông qua tiếp xúc trực tiếp của cán bộ, công chức, viên chức.
2.3. Góp ý đột xuất
a. Góp ý vào các văn bản dự thảo do cơ quan nhà nước gửi đến Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp hoặc đăng công khai trên Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ, của Ủy ban nhân dân các địa phương và các phương tiện thông tin đại chúng.
b. Góp ý cho cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức khi có yêu cầu hoặc khi Hội thấy cần thiết.
c. Góp ý khi đại diện tổ chức đảng làm việc với Hội Liên hiệp Phụ nữ cùng cấp.
Chuyên đề 5
QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI VIÊN TRONG XÂY DỰNG TỔ CHỨC HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM, QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT
Cách 1:
- Truyền thông viên thuyết trình phần II (nội dung chính)
- Truyền thông viên hướng dẫn thảo luận về:
+ Kinh nghiệm hoặc mong muốn để có thể tham gia vào các hoạt động của thôn, xã, phường được tốt hơn
+ Những việc hội viên phụ nữ cần phải làm gì để thực hiện tốt vai trò của mình
Cách 2:
- Tổ chức hái hoa dân chủ với một số câu hỏi và gợi ý trả lời ở phần II (Nội dung chính)
- Truyền thông viên hướng dẫn thảo luận về:
+ Kinh nghiệm hoặc mong muốn để có thể tham gia vào các hoạt động của thôn, xã, phường được tốt hơn
+ Những việc hội viên phụ nữ cần phải làm gì để thực hiện tốt vai trò của mình
II. NỘI DUNG CHÍNH
Câu hỏi 1: Theo Hiến pháp 2013, Hội viên, phụ nữ có những quyền gì?
Hội viên phụ nữ được hưởng đầy đủ các quyền của công dân trong các lĩnh vực sau:
- Quyền chính trị: Quyền tham gia bầu cử, ứng cử tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền tham gia thảo luận các vấn đề của đất nước, địa phương; kiến nghị với cơ quan nhà nước, được quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý; quyền được ứng cử, bầu cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật...
- Quyền dân sự: Quyền được tự do đi lại, cư trú trong nước, ra nước ngoài và từ nước ngoài về theo quy định của pháp luật; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bất khả xâm phạm thân thể, chỗ ở; quyền bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín...
- Quyền về kinh tế, lao động và việc làm: Quyền lao động, tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật; quyền sở hữu hợp pháp, quyền thừa kế tài sản, tư liệu sản xuất, vốn...
- Quyền về văn hóa, giáo dục, xã hội: Quyền được bảo vệ sức khỏe, xây dựng nhà ở, bình đẳng nam nữ; quyền bảo hộ hôn nhân gia đình; quyền nghiên cứu khoa học, pháp minh, sáng chế; quyền tác giả, quyền được hưởng các chế độ, chính sách ưu đãi đối với đối tượng có công; quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa; quyền xác định dân tộc; quyền được sống trong môi trường lành mạnh ...
- Quyền liên quan đến tố tụng, tư pháp: Quyền tiếp cận tư pháp; quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hoạt động sai trái của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân nào...
- Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Câu hỏi 2: Hội viên, phụ nữ và công dân nói chung có những trách nhiệm và nghĩa vụ gì theo Hiến pháp 2013?
- Có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc; Bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân; thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; Nghĩa vụ bảo vệ và tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.
- Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo luật định; Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước.
- Nghĩa vụ học tập; Thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh; Bảo vệ môi trường; cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại.
- Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; Không được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật; Không được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác; Không được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý; Không được lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Câu hỏi 3: Khi tham gia Hội LHPN Việt Nam, hội viên có những quyền gì?
Hội viên Hội LHPN Việt Nam có các quyền sau:
- Được dân chủ thảo luận và biểu quyết chủ trương, nhiệm vụ công tác Hội; được tham gia hoạt động, sinh hoạt Hội tại nơi cư trú và nơi làm việc.
- Được Hội hướng dẫn, giúp đỡ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.
- Được ứng cử, đề cử, bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Hội theo quy định.
Câu hỏi 4: Hãy nêu trách nhiệm khi là hội viên Hội LHPN Việt Nam?
- Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân
- Chấp hành Điều lệ Hội, tích cực tham gia sinh hoạt và các hoạt động Hội, đóng hội phí theo quy định của Điều lệ.
- Học tập nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, giữ gìn uy tín và xây dựng tổ chức Hội vững mạnh.
- Đoàn kết, giúp đỡ nhau trong công tác, học tập, lao động, đời sống, xây dựng gia đình hạnh phúc, phấn đấu thực hiện bình đẳng giới.
Câu hỏi 5: Hội viên, phụ nữ có những quyền gì trong tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền cơ sở?
Theo Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn: hội viên, phụ nữ ở xã, phường, thị trấn có quyền được biết và tham gia ý kiến vào 11 việc ở địa phương liên quan đến đời sống của chính mình và gia đình, được quy định trong pháp lệnh thực hiện dân chủ, đó là:
1. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hành năm.
2. Dự án công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư…; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phương án điều chỉnh quy hoạch khu dân cư.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của công chức cấp xã, phường trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân.
4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, các khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn của nhân dân để phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.
6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính của địa phương.
7. Kế hoạch thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ tiêu cực tham nhũng…, kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, phường.
8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân về những vấn đề mà chính quyền xã/phường đưa ra lấy ý kiến của nhân dân.
9. Đối tượng, mức thu các loại phí và nghĩa vụ tài chính do chính quyền cấp xã/phường trực tiếp thu.
10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân.
11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã/phường thấy cần thiết.
Và để góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, hội viên, phụ nữ còn được tham gia góp ý vào các nội dung sau :
* Góp ý đối với cấp uỷ, tổ chức đảng:
- Việc triển khai, thực hiện các nội dung của Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
- Dự thảo các chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn, quy chế, quy định... của Đảng để cụ thể hoá nội dung Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII; dự thảo các văn bản pháp luật của Nhà nước để thể chế hoá nội dung Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII.
- Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII của cấp uỷ, tổ chức đảng.
- Mối quan hệ giữa cấp uỷ, tổ chức đảng với nhân dân.
* Góp ý đối với cán bộ, đảng viên:
- Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" của cán bộ, đảng viên.
- Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền; việc thực hiện cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" của cán bộ, đảng viên.
- Trách nhiệm thực thi công vụ; thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên; mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân.
Câu hỏi 6: Để tham gia có hiệu quả vào xây dựng địa phương, phụ nữ có những trách nhiệm gì?
1. Đọc các văn bản niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, nhà văn hóa cấp xã/phường, thôn, bản.
2. Lắng nghe các thông tin trên hệ thống truyền thanh của cấp xã, thôn, bản.
3. Tích cực tham gia và đóng góp ý kiến tại các cuộc họp thôn, bản, các buổi sinh hoạt tổ/chi hội phụ nữ, sinh hoạt câu lạc bộ, các chương trình tập huấn chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật…
4. Quan tâm và tích cực tham gia các công việc của cộng đồng thôn, bản…
Câu hỏi 7: Hội viên có quyền giám sát những việc gì ở địa phương và bằng cách nào?
- Hội viên phụ nữ được quyền giám sát những công việc sau:
+ Những nội dung công khai để nhân dân biết + Những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp
+ Những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết cấp có thẩm quyền quyết định
+ Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định
- Hội viên, phụ nữ có thể giám sát các công việc ở địa phương bằng cách:
+ Thông qua hoạt động của ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
+ Phụ nữ trực tiếp thực hiện quyền giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan Hội LHPN Việt Nam, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận cấp xã/phường, ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
Để thực hiện tốt quyền giám sát của mình, hội viên, phụ nữ cần tham gia các cuộc họp thôn, bản, tổ dân phố; sinh hoạt chi/tổ Hội Phụ nữ, tích cực đóng góp ý kiến vào các vấn đề liên quan đến quyền lợi ích của bản thân, gia đình và cộng đồng. Hội viên, phụ nữ cũng tích cực học tập, nâng cao trình độ, cần mạnh dạn, tự tin và tích cực tham gia thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở.
Câu hỏi 8: Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở cần theo những nguyên tắc nào?
- Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
- Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã/phường.
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Câu 9: Để tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền cơ sở góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, hội viên, phụ nữ cần làm gì?
- Nhận diện được 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; 19 điều quy định đảng viên không được làm; nắm được các văn bản pháp luật liên quan đến nội dung triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII.
- Tích cực tham gia các hoạt động công đồng như các cuộc họp chi/tổ phụ nữ, họp tổ dân phố... để nắm bắt, cập nhật các thông tin, kiến thức và chủ động có ý kiến trao đổi các vấn đề ngay tại các cuộc họp tại cộng đồng.
- Phát hiện những biểu hiện bất thường của người cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị sinh sống trên địa bàn; Mạnh dạn trao đổi, tố giác với cơ quan có thẩm quyền những vấn đề tiêu cực, những biểu hiện bất thường của các cá nhân, tập thể trên địa bàn.
- Hội viên, phụ nữ cần nâng cao ý thức công dân, rèn luyện bản lĩnh chính trị, thường xuyên cập nhật tin tức, thông tin về các vấn đề lớn của đất nước trên các kênh thông tin chính thống (chính quyền địa phương, chương trình thời sự VTV, Đài Tiếng nói Việt Nam); không nghe theo sự xúi giục, kích động của các thể lực thù địch gây chia rẽ trong cộng đồng.
- Nếu có vấn đề chưa rõ, chưa hiểu thấu đáo, hội viên, phụ nữ cần trao đổi thông tin với Chủ tịch Hội phụ nữ xã, đại diện chính quyền địa phương để được cung cấp thông tin, trao đổi làm rõ.
- Bản thân mỗi hội viên, phụ nữ cũng tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, làm gương cho con cháu, người thân trong gia đình; xây dựng lối sống trong sáng, lành mạnh; không ngừng học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của bản thân góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.
PHỤ LỤC
MỘT SỐ CÂU NÓI CỦA BÁC HỒ VỀ PHỤ NỮ
1. Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ
2. Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.
... Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh.
Bài nói tại Hội nghị cán bộ thảo luận Luật Hôn nhân và gia đình ngày 10-10-1959
.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nữ đại biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 9 năm 1960. (Ảnh tư liệu)
3. ...Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng, Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội...
Bài nói chuyện tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III ngày 9-3-1961
Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc năm 1959. (Ảnh tư liệu)
4. Phụ nữ cũng là người chủ nước nhà. Để xứng đáng là người chủ thì chị em phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm...
5. Phụ nữ cần phải xung phong trong việc xây dựng đời sống mới. Ở miền núi đang còn những phong tục không tốt do bọn phong kiến để lại, như: ma chay, cúng bái rất tốn kém. Cưới vợ, gả chồng quá sớm. Vệ sinh phòng bệnh, v.v... còn kém. Đó là những mê tín và hủ tục nên xóa bỏ, để xây dựng mỹ tục thuần phong.
6. Đoàn kết là sức mạnh. Đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi...
7. Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được...
Nói chuyện Hội nghị cán bộ phụ nữ miền núi, ngày 19-3-1964
8. Phụ nữ ta còn có một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền…
Nói chuyện tại Hội nghị các đại biểu phụ nữ tham gia công tác chính quyền toàn miền Bắc ngày 1-8-1960
9. Phụ nữ phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xoá bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập. Có như thế phong trào “Năm tốt” sẽ ngày càng lan rộng, ăn sâu và sẽ thực hiện 100% bình quyền, bình đẳng
Phát biểu tại Đại hội liên hoan Phụ nữ “năm tốt” (ngày 30/4/1964)
10. …Nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ, chỉ: Hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát, thế là bình đẳng bình quyền. Lầm to!
Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó.
Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội....
Vũ lực của cuộc cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật. Phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công.
Bài viết "Nam nữ bình quyền" năm 1952
11. Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xoá bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại; phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật
Phát biểu tại tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III, tháng 3/1961
12. Phụ nữ Việt Nam ta sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù. Trong kháng chiến, phụ nữ ta từ Bắc đến Nam đều hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước” (…) Phụ nữ ta cần phải cố gắng nhiều để theo kịp chị em các nước bạn, góp phần nhiều hơn nữa trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thư gửi phụ nữ toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ
13.“Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”…
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
14.“Xây dựng về tư tưởng, về chính trị, về tổ chức, đó là đường lối xây dựng Đảng. Đó không những là công việc của Đảng và của đảng viên mà cũng là của toàn dân... Đảng viên thì phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
MỘT SỐ CÂU CHUYỆN VỀ BÁC HỒ VỚI PHỤ NỮ
Không có chỗ cho “Bác gái” đứng à?
Ngày 26 tháng 12 năm 1956, Bác Hồ đã tiếp hơn 300 đại biểu phụ nữ Thủ đô tại Phủ Chủ tịch. Họ là những phụ nữ ưu tú, gồm đủ các thành phần: Công nhân, nông dân, trí thức, tiểu thương, học sinh, các tôn giáo, phụ nữ miền Nam tập kết ra Bắc và các gia đình có công với cách mạng. Được đi gặp Bác, ai cũng tươi cười hớn hở, diện những bộ quần áo đẹp nhất.
Sau khi nói chuyện và căn dặn các đại biểu phụ nữ, Bác vui vẻ chỉ vào những đĩa bánh, những đĩa kẹo bày trên bàn và bảo:
– Các cô ăn bánh, ăn kẹo đi. Cô nào có cháu bé thì mang về cho cháu; có chồng thì mang về cho chồng; có người yêu thì mang về cho người yêu, nói là quà của Bác Hồ.
Được lời của Bác, mọi người phấn khởi chia nhau bánh, kẹo.
- Nào bây giờ Bác cháu ta ra chụp ảnh.
Mọi người cùng kéo cả ra thềm Phủ Chủ tịch. Chị nào, cô nào cũng muốn được đến gần Bác để chụp ảnh. Bác bảo:
– Ai cũng muốn đứng gần Bác cả thì không có chỗ cho “bác gái” đứng à?
Mọi người còn chưa hiểu “bác gái” nào Bác đã kéo bác sĩ Trần Duy Hưng, Chủ tịch thành phố Hà Nội lại bảo: “Bác gái đây!”.
Tất cả mọi người cười vui vẻ. Bác nói tiếp:
– Bây giờ những cô nào đứng phía trước thì ngồi xuống, để những người đứng phía sau được rõ mặt hơn.
Mọi người răm rắp vâng theo lời Bác.
Nhà nhiếp ảnh bấm liền mấy “pô” ảnh. Ai cũng nghĩ: Chụp ảnh xong sẽ được chào Bác ra về. Nhưng đến khi quay lại, Bác đã không đứng đó nữa làm mọi người vô cùng luyến tiếc.
Các chú ấy nói có đúng không?
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh với các cán bộ cơ quan
TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ở Việt Bắc, tháng 2/1949
Chủ nhật trước ngày 2 tháng 9 năm 1958, một số chị em trong cơ quan Thành hội Phụ nữ đã đi phố sắm sửa cho ngày lễ. Nhưng khu tập thể vẫn đông vui vì hôm đấy không chỉ có các ông chồng về chơi, mà nhiều chị em còn đón cả bố mẹ ở quê ra dự ngày hội lớn ở Thủ đô. Mọi người không ngờ đã được Bác Hồ đến thăm. Xe vừa đỗ, Bác nhanh nhẹn bước xuống. Các chị trong cơ quan mừng quá, ùa ra đón, mời Bác vào phòng khách, nhưng Bác không vào mà nói:
– Không, Bác chưa vào phòng khách. Các cô cứ để Bác đi xem các cô ăn ở thế nào đã.
Bác đi qua sân, qua dãy nhà tập thể xuống thẳng bếp, hỏi thăm việc nấu nướng và khen ngợi chị em cấp dưỡng giữ gìn bếp núc sạch sẽ. Đến thăm nhà trẻ nhưng là ngày nghỉ, các cháu ở nhà, Bác nhìn qua cửa thấy nhà trẻ sạch bong, Bác gật đầu tỏ ý hài lòng. Bác thấy ngoài sân có một số cán bộ nam giới, Bác hỏi anh em:
– Cơ quan phụ nữ sao lại có các chú ở đây?
– Thưa Bác, hôm nay là Chủ nhật, chúng cháu về thăm gia đình ạ!
Bác hỏi lại:
– Các chú chỉ về thăm thôi à? Các chú về phải giúp đỡ các cô ấy việc gì chứ!
– Thưa Bác, chúng cháu có giặt giũ, bế con, dọn dẹp nhà cửa đấy ạ!
Bác quay lại hỏi các chị em:
- Thế nào, các chú ấy nói có đúng không?
– Thưa Bác, đúng ạ!
Tất cả vui vẻ cười rộ lên sung sướng theo cái gật đầu, bằng lòng của Bác. Lúc ấy Bác mới đi vào phòng khách và hỏi thăm sức khỏe, tuổi tác của mấy cụ già, rồi căn dặn các chị em làm việc tốt, riêng với các cô giữ trẻ, Bác nhắc nhở:
– Các cháu là mầm non của Tổ quốc, là tương lai của xã hội, các cô phải trông nom dạy dỗ các cháu cho chu đáo.
Bác đến thăm và nói chuyện với Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh trao huy hiệu cho đại biểu có nhiều thành tích tại Đại hội Những người xuất sắc trong phong trào "Ba đảm đang" của phụ nữ Thủ đô ngày 2/12/1965
Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô lần thứ nhất, khai mạc rất trọng thể vào tối 1-12-1965 tại hội trường Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Chiều 2-12-1965 (ngày họp thứ 2) vào khoảng 16 giờ, Đại hội vô cùng sung sướng, phấn khởi được đón Bác. Cùng đi với Người có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Anh hùng miền Nam Tạ Thị Kiều. Vừa thấy Bác, cả Hội trường đứng bật dậy, vỗ tay ran như sấm lẫn với tiếng reo vô cùng phấn khởi.
– Bác! Bác đến! Bác đến!… Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!
Sau mấy phút vô cùng sôi nổi, Bác giơ tay ra hiệu (một cử chỉ thường có của Bác) cho Đại hội im lặng, rồi Bác tươi cười chỉ vào chị Kiều và nói:
– Hôm nay, Bác dẫn “cô bé này” đến với Đại hội, các cô, các chú (Đại hội có một số đại biểu là nam giới) có phấn khởi không?
Cả Đại hội vỗ tay rầm rầm xen lẫn tiếng:
– Thưa Bác, có ạ!
Không khí Đại hội thật vô cùng náo nhiệt, sôi nổi. Bác đã kể cho Đại hội nghe về những gương anh hùng của phụ nữ ta trong thời kỳ bí mật, trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sự hy sinh anh dũng của chị em miền Nam trong chống Mỹ.
Thật bất ngờ, Bác rút trong túi ra một cột báo của Báo Thủ đô ngày hôm đó, đọc tên bảy bà và chị, xong Bác hỏi:
– Các cô ấy có mặt ở Đại hội này không?
Hội trường lại vang lên:
– Thưa Bác, có ạ!
Bác tươi cười nói:
– Hôm nay, Bác đọc báo thấy có đăng thành tích của bảy cô là công nhân, là nông dân, là giáo viên… Bác rất vui, Bác có mấy chiếc huy hiệu để tặng các cô ấy.
Mọi người sung sướng vỗ tay tưởng làm vỡ phòng họp.
Sau cùng Bác hỏi:
– Các cô có muốn được Bác thưởng Huy hiệu của Bác không?
Cả Hội trường lại phấn khởi trả lời vang lên:
– Thưa Bác, có ạ, có ạ!
Vậy các cô về làm công tác cho tốt, Bác sẽ thưởng!
Cả Hội trường lại vang lên như sấm.
Vào nhầm nhà trẻ
Ở chiến khu Việt Bắc, một lần Bác đến thăm nhà nữ đồng chí Loan, người đã kéo cờ ở Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Vào đến nhà, thấy đông con nhỏ, Bác nói vui:
– Ồ tưởng đây là nhà cô Loan, hóa ra mình vào nhầm nhà trẻ!
Biết Bác phê bình khéo, chị gượng cười và báo cáo:
– Thưa Bác đây là tiểu đội của vợ chồng cháu đấy ạ!
Bác vui vẻ bảo chị tập trung “tiểu đội” cứ lần lượt, bé nhất đứng trước Bác chia kẹo. Chị đang loay hoay sắp xếp đội hình, Bác bảo:
– Tiểu đội trưởng cũng đứng vào hàng chứ!
Bác chia kẹo cho các cháu và chị nữa. Khi đến lượt chị, Bác nói vui:
Bác “Chấm bài” cho một cô giáo
Sáng 17 tháng 9 năm 1958, Bác đến thăm ngót 3.000 thầy giáo, cô giáo của toàn miền Bắc được tập trung về Trường Bổ túc Công nông Trung ương để nghiên cứu tình hình nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ của ngành giáo dục.
Bác nói chuyện với các thầy giáo, cô giáo về nghề dạy học, nghề “trồng người”.
Tại buổi nói chuyện này, có một chuyện làm mọi người nhớ mãi và trở thành một kỷ niệm không thể quên. Lúc Bác nói chuyện xong một cô giáo của Trường Lương Ngọc Quyến – Liên khu Việt Bắc lên tặng Bác một món quà nhỏ. Mọi người thấy cô giáo trân trọng tặng Bác một chiếc cặp ba dây. Bác mở ra: Trong cặp có 4 chiếc khăn mùi soa. Bác cầm một chiếc và đọc to những dòng chữ thêu trên khăn. Đó là một bài thơ ngắn. Đọc xong Bác trích ra hai câu và “chấm bài” ngay tại chỗ. Câu thứ nhất: “Bác là ánh sáng quang vinh”, Bác sửa: “Bác là Hồ Chí Minh” ; và câu thứ hai: “Chúng con quyết trí hy sinh” lại được Bác sửa: “Chúng tôi quyết chí hy sinh”. Bác vui vẻ nói: “Quyết chí” mà cô giáo viết sai chính tả thành “Quyết trí”. Cả Hội trường cười vui, làm không khí thân mật, đầm ấm, tình cảm giữa lãnh tụ với nhân dân mà ấm áp như cha con trong nhà.
Gái mà làm anh nuôi à?
Đến thăm một đơn vị bộ đội phòng không, đang giữa câu chuyện với ngót 500 cán bộ, chiến sĩ, Bác hỏi:
– Có anh nuôi ở đây không?
– Có ạ!
– Các cháu lên đây.
Các cô gái ngày thường lấm lem than nồi, thế mà giờ đây lại được Bác Hồ quan tâm, cảm động quá cứ ôm lấy Bác Hồ mà khóc. Bác hỏi vui:
– Các cháu làm gì?
– Chúng cháu làm anh nuôi ạ!
– Gái mà làm anh nuôi à?
Bác cháu bật cười vui vẻ.
Cán bộ nữ phải sát quần chúng
Ảnh: Bác Hồ đi thăm một hợp tác xã ở Nam Ðịnh năm 1959
Hồi đó anh chị em là cán bộ miền Nam, gồm năm đến sáu ngàn người, tập kết ra miền Bắc được đưa lên nông trường ở Yên Bái, Lào Cai. Do cuộc sống gian khổ, không quen khí hậu miền Bắc nên số đông bị ốm, rồi lại hết việc làm. Với ý nghĩ hai năm sẽ trở về quê hương nay gặp quá nhiều khó khăn, nhiều người bất mãn… Trước tình hình đó, Nhà nước chủ trương lập các khu điều dưỡng cho cán bộ miền Nam… Khi chúng tôi mời Bác về thăm anh em ở các Trại Thường Tín và Thanh Trì thì Bác nhận lời ngay…
Trại xây trên khu đất rộng nên Bác chưa vào hội trường vội, Bác đi một lượt thăm mọi nơi, mọi chỗ ăn chỗ ở, Bác thấy sạch sẽ, vừa ý. Bác hỏi tôi:
- Lúc nào cũng sạch sẽ như thế này à?
- Thưa Bác, vâng ạ!
Sau khi thăm các trại điều dưỡng, bác còn thăm trường Nữ sinh Trưng Vương. Các cháu như đàn ong, quây quanh lôi kéo Bác, Bác thấm mệt, toát cả mồ hôi. Tôi liền ngăn: “Ô, các cháu đi xuống đi, làm thế Bác mệt”. nhưng Bác bảo: “Kệ các cháu”…
Có nhiều dịp được tiếp xúc làm việc gần Bác, tôi thấy Bác rất quan tâm đối với cán bộ miền Nam cũng như đối với phụ nữ. Bác lắng nghe và ân cần chăm sóc thăm hỏi động viên họ, khuyên bảo cán bộ phụ nữ phải đi sát quần chúng, phải biết nấu cơm, phải biết tắm rửa cho trẻ con. Đối với dân, Bác rất tôn trọng, quan tâm đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Bác sống rất giản dị, thanh đạm.
(Trích lời kể của bà Lê Minh Hiền
Nguyên Thứ trưởng Bộ Cứu tế nay là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)
Vinh dự được đón Bác Hồ
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi chị em dân công lao động đào mương chống hạn ở Từ Liêm, Hà Nội, ngày 16/12/1958
… Thấy Bác đứng dưới bóng cây mát, chúng tôi đến vây quanh Bác, đồng chí Bộ trưởng cũng đến đứng gần Bác.
Bác khen:
- Ở đây gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp thế là tốt. Và Bác hỏi:
- Các cô các chú ở đây đã có “Chi bộ 4 tốt” chưa?
- Dạ thưa Bác, có ạ!
- Ở đây đã có “Chi đoàn thanh niên 4 tốt” chưa?
- Dạ, thưa Bác, có ạ!
- Đảng viên phải gương mẫu, đoàn viên phải đầu tàu. Ở đây các cô các chú lại có phong trào thi đua tốt, tự lực cánh sinh làm được nhiều việc, nhận được lá cờ đầu của ngành Y tế là phải. Nhưng đây mới là thành tích bước đầu. Các cô chú phải khiêm tốn học tập và phát huy thành tích hơn nữa. Các cô các chú phải chữa bệnh bằng nhiều cách. Có thuốc quý chưa đủ, cần cho người bệnh ăn ngon và phù hợp với từng bệnh cũng là liều thuốc quý. Lại cần phải tuyên truyền, giải thích cho đồng bào xung quanh biết giữ gìn vệ sinh. Cần làm cho người bệnh khi khỏi bệnh biết cách phòng bệnh cho mình và cho gia đình mình.
(Trích lời kể bà Trương Thị Minh Tri - Bác sĩ bệnh viện Vân Đình - Hà Tây)
Các cô còn phong kiến thế à?
Đại hội Liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc đầu tiên, tổ chức ở Việt Bắc hồi tháng 5 năm 1952…
Chiều mát, Bác đến từng tổ chiến sĩ ân cần thăm hỏi, rồi mọi người theo Bác ra một quãng đồi san phẳng để vui chơi tập thể. Hồi đó, phong trào nông tác vũ “son la son” mới gia nhập Chiến khu Việt Bắc. Bác bảo các chiến sĩ: “Các cô, các chú, chiến đấu đã chiến đấu hăng, vui nhộn phải vui nhộn mạnh. Nào, ta nhảy đi!”. Đám thanh niên rất sẵn sàng, nhưng đám thiếu nữ còn sượng sùng ra ý rụt rè… Bác bảo: “Các cô còn phong kiến thế à?”. Được Bác khuyến khích, cả nam lẫn nữ bấy giờ mới cầm tay, nhảy tưng bừng giữa dàn nhạc mồm: “Son la son…” vang dội cả khu đồi.
(Trích trong sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 2, tr.53)
Muôn vàn tình thân yêu dành cho các cháu gái
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần thăm hỏi bà con xã Tam Sơn, Tiên Sơn, Hà Bắc trong dịp Người về thăm và chúc Tết đồng bào, ngày 9/2/1967
Một điều Bác dạy bảo mà suốt đời tôi không bao giờ quên là: “Báo chí là đại biểu cho dư luận, phải giúp Chính phủ đạt được thành công trong các chính sách đối nội đối ngoại. Sau này những lúc tình hình cách mạng có chuyển biến mới, người làm báo phải suy nghĩ nhiều. Câu nói của Bác giúp tôi nhớ tới vị trí và tính chất của báo chí ta. Một lần, Bác hỏi chị Thanh Thủy và tôi: “Các cô đã có con chưa? Các cô đã biết bế con, nuôi con chưa? Làm báo Phụ nữ không phải chỉ nói chính trị suông, giải phóng phụ nữ chung chung mà còn phải hướng dẫn cho chị em cách nuôi con, dạy con chăm lo việc gia đình. “Chị em trong cơ quan hỏi Bác nhiều điều. Bác trả lời cả những câu hỏi nhỏ nhặt nhất: “Tại sao trong họa báo Liên Xô lại thấy ảnh nhiều chị em để tóc dài? Có phải là sau khi vận động phụ nữ cắt tóc ngắn rồi lại phải vận động phụ nữ để tóc dài hay sao?”. Bác trả lời đại ý: Sau Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô có rất nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng cuộc sống mới. Phụ nữ phải đem hết sức mình ra chiến đấu và sản xuất, cho nên chị em ăn mặc giản dị, tóc cũng cắt ngắn để đi lại cho gọn. Bây giờ, chiến tranh thứ hai kết thúc đã nhiều năm, nền kinh tế đã được khôi phục và phát triển, đời sống được nâng cao, phụ nữ đã có thể trang điểm cho thêm đẹp, ai cho rằng để tóc dài đẹp và không vướng víu gì trong sản xuất thì cứ để…
Năm 1952 có Đại hội liên hoan các anh hùng, chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất và Hội nghị bàn về chiến tranh du kích. Sau hai cuộc họp lớn đó, mọi người náo nức khen ngợi hai bản báo cáo của anh hùng Nguyễn Thị Chiên và của chị Phạm Thị Nhật, Bí thư chi bộ. Một hôm, Bác đến thăm cơ quan, chị em chúng tôi đều nói đến hai bản báo cáo ấy. Bác hỏi: “Các cô có biết vì sao mà báo cáo của các cô ấy hay không?”. Chị Đinh Thị Cẩn thưa: “Đó là do chị Chiên, chị Nhật đều lăn lộn, xông pha nhiều trong thực tiễn chiến đấu cho nên mới nói lên sự thật rất sinh động. Bác vừa cười vừa nói: “Đúng là như thế, nhưng không phải chỉ có thế. Các bản báo cáo ấy hay còn là do không có sự sửa chữa, thêm thắt của nhiều người khác…”. Tôi suy nghĩ rất nhiều. Câu nói ý nhị của Bác nhắc nhở tôi mỗi khi sử dụng hoặc biên tập lại bài của thông tin viên, bạn đọc trong đông đảo nhân dân, phải luôn luôn cố gắng ghi lại đúng đắn, trung thực những lời nói, những ý nghĩ mộc mạc, giản dị của những con người trong thực tiễn sản xuất và chiến đấu… không thể tùy tiện sửa đổi thêm bớt theo ý nghĩ chủ quan của mình./.
(Những kỷ niệm sâu sắc của phụ nữ Việt Nam với Bác Hồ,
NXB Phụ nữ, 2005, tr.117)
Bác Hồ với hai nữ nghệ sĩ quân đội
Nghệ sĩ Kim Ngọc - một giọng ca vàng của Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị - đã nhiều lần được gặp Bác Hồ. Một lần, chị và hai diễn viên Thuỳ Chi, Xuân Đức được vào hát cho Bác nghe. Hát xong, lúc trở về, Bác chia kẹo cho từng người và thơm lên trán mỗi người. Bác nói: “Các cháu chỉ được thơm một cái thôi, Bác còn để dành cho các chiến sĩ của Bác”.
Năm 1957, Đoàn Ca múa Quân đội sang biểu diễn ở Triều Tiên đúng dịp Bác đang thăm nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Bác tìm ra chỗ Đoàn ở, trên một quả đồi cao. Bác đến để thăm hỏi và động viên đoàn.
Năm 1959, nghệ sĩ Kim Ngọc sinh cháu đầu lòng, thật là một tin vui cho gia đình nghệ sĩ. Sau khi sinh cháu, chị lại được gặp Bác. Vì vừa sinh con nên sức còn yếu, có lúc thấy giọng hát chị đuối dần.
Bác nói với chị: “Cháu vừa sinh nở, người gầy lắm, phải chú ý bồi dưỡng cho mau lại sức”. Chị thưa với Bác là do sức khoẻ kém nên tiếng hát không được như trước. Bác lại bảo: “Thế thì cháu phải đi học thêm về ca nhạc dân tộc… chân không đến đất, cật không đến trời, thì không ứng dụng được đâu... ”. Vâng lời Bác, sau ðó chị ðã xin đi học một lớp dân ca và nhờ đó sức hát lại lên.
Nghệ sĩ Tường Vi - một giọng ca được nhiều người yêu mến - kể lại vinh dự được gặp Bác nhiều lần. Chị kể:
“ - Tôi cũng có hạnh phúc được gặp Bác nhiều lần. Không phải chỉ gặp Bác mỗi khi vào biểu diễn phục vụ chiến sĩ ở tuyến lửa, ở nơi xa về. Những lần ấy Bác đều gọi và vào cho quà. Bác thường hỏi: “Nơi các cháu đi qua, đồng bào có bị đói không” và “Đơn vị các cháu đến, bộ đội có bị ghẻ không?”. Nghe câu hỏi của Bác, tôi càng thấm thía sự quan tâm của Bác đối với mọi người...
Nhiều lần ấy, Bác thường hỏi một câu mà nghệ sĩ Tường Vi và mấy bà mẹ trẻ là diễn viên của Đoàn ca múa Tổng cục Chính trị không thể ngờ tới: “Thế các cháu đi diễn dài ngày thì gửi con cho ai?” Câu hỏi ấy làm cho các chị cảm động đến ứa nước mắt.
Nghệ sĩ Tường Vi kể một câu chuyện rất riêng của mình:
- Lần tôi sinh cháu đầu lòng, không may cháu bị mất. Tôi đau buồn quá đến phát ốm. Không rõ ai đã nói chuyện này với Bác, Bác cho gọi tôi vào. Được Bác gọi, tôi mừng quá, vội vào ngay. Bác nhìn tôi hồi lâu rồi bảo: “Thôi, “thua keo này, bày keo khác”. Trông cháu thiếu máu quá, nghỉ hát, bồi dưỡng đã…”
Lần gặp Bác này, tôi càng cảm nhận sâu sắc một điều: Bác quan tâm đến mọi người, đặc biệt là đối với các bà mẹ và trẻ em.
(Trích theo Tạ Hữu Yên: Mênh mông tình thương Hồ Chí Minh, Nxb.Thanh niên, H.2002, tr.37-39)
Bác Hồ với nhân dân và chị em phụ nữ Nghệ An
Trong lần nói chuyện với đại biểu nhân dân Nghệ An dịp về thăm quê ngày 14-6-1957, khi nói đến những thành tích của tỉnh trên lĩnh vực nông nghiệp, Bác nhấn mạnh đến vai trò của chị em phụ nữ, Bác nói: “Tôi muốn nêu một công trạng của chị em phụ nữ tỉnh ta. Đó là phong trào chăn nuôi gia súc”. Bác khen: Phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phong trào nổi trội hơn và Bác căn dặn phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phải cố gắng hơn nữa, để có kết quả cao hơn, để làm mẫu, làm gương cho chị em khác cùng thi đua. Còn chị em các huyện khác phải thi đua cho kịp với chị em Anh Sơn, Nghi Lộc… Tiếp đó, Bác biểu dương chị Trương Thị Tâm ở Nghĩa Đàn một mình nuôi 300 con gà, 4 con lợn, chị còn làm ruộng, tham gia công tác xã hội, làm tổ trưởng phụ nữ. Bác nói “Đây là một phụ nữ anh hùng… Anh hùng không phải “Đông chinh Tây phạt”, hoặc cứ làm cái gì kỳ khôi xuất chúng. Nuôi được nhiều lợn, nhiều gà, tăng gia sản xuất, tiết kiệm, tham gia công tác xã hội tốt, như thế là anh hùng, như thế là chiến sĩ”… “Các chị em ở đây cứ cố gắng thì ai cũng có thể làm anh hùng, chiến sĩ”. Những lời căn dặn của Bác thật cụ thể, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc. Làm theo lời Bác để trở thành anh hùng, chiến sĩ không phải chuyện gì quá xa xôi. Mỗi chị em chúng ta hãy làm tốt những việc giản dị, bình thường hàng ngày trong gia đình, thôn xóm, bản làng, cơ quan, đơn vị.
Ngày 9-12-1962, Bác đến thăm Nhà máy Cơ khí Vinh. Nói về những sáng kiến trong cải tiến sản xuất của công nhân nhà máy, Bác hỏi “thế thì các cháu trai có sáng kiến nhiều hơn hay các cháu gái có sáng kiến nhiều hơn?”. Được biết các cháu trai có nhiều sáng kiến hơn, Bác nhẹ nhàng động viên “Các cháu gái phải cố gắng”.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Bác Hồ nhiều lần gửi thư động viên, khen ngợi các mẹ, các chị phụ nữ Nghệ An đã chịu nhiều hy sinh, đóng góp xương máu, công sức tham gia phục vụ kháng chiến. Ngày 1-5-1949, Bác gửi thư cho Hội mẹ chiến sĩ Liên khu IV, Bác viết: “Các chiến sĩ thì sẵn sàng hy sinh gia đình, hy sinh tính mệnh để giết giặc cứu nước… các bà thì thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột thịt. Thế là các cụ, các bà cũng trực tiếp tham gia kháng chiến”. Ngày 16-3-1967, Bác gửi thư cho cán bộ và nhân viên nhà thương Nghệ An. Trong thư Bác viết “hầu hết cán bộ và công nhân viên của Nhà thương là phụ nữ… các cô, các cháu đã vượt khó khăn gian khổ, quyết tâm xây dựng một Nhà thương tốt… Bác rất vui lòng khen các cô, các cháu và mong tất cả mọi người đoàn kết tốt và tiến bộ nhiều”.
Chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Nghệ An là điểm nút quan trọng, địch ngày đêm bắn phá ác liệt, nhằm cắt đứt các tuyến đường giao thông, ngăn chặn nguồn tiếp tế từ hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Các đội thanh niên xung phong Nghệ An đã không quản mưa bom, bão đạn sửa cầu, làm đường, đảm bảo giao thông thông suốt. Ngày 27-1-1969, Bác gửi thư khen ngợi Đội thanh niên xung phong số 333 tỉnh Nghệ An. Bác viết: “Đội phần lớn là các cháu gái đã dũng cảm chiến đấu, tích cực lao động, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, bảo đảm cầu đường được thông suốt luôn… Các cháu xứng đáng là những thanh niên ưu tú của nhân dân Việt Nam anh hùng”. Bác còn căn dặn: giặc Mỹ đã thua to, nhưng chúng vẫn rất ngoan cố. Vì vậy, các cháu phải nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng; luôn luôn đoàn kết, ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá để ngày càng tiến bộ; đem hết nhiệt tình, tài năng của tuổi trẻ cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Bác vừa căn dặn phụ nữ tích cực lao động, chiến đấu nhưng cũng phải cố gắng học tập, nhất là các cháu gái. Nói chuyện với đại biểu nhân dân Nghệ An ngày 14-6-1957, khi biết số lượng học sinh gái ít hơn nhiều hơn so với học sinh trai, Bác đã không vui. Bác nói “Tỉnh ta có 7 vạn học sinh. Thế là khá, nhưng trong đó chỉ có 32 học sinh gái ở cấp III và 865 học sinh gái cấp II là còn ít. Thế thì các cháu gái phải cố gắng, các vị cha mẹ đừng tiếc công mà giữ con gái ở nhà, không cho các cháu đi học”. Đến thăm Trường Sư phạm miền núi Nghệ An (ngày 9-12-1961), Bác hỏi thăm học sinh các dân tộc. Khi Bác hỏi đến các cháu học sinh dân tộc Tày, có một học sinh nam đứng dậy, Bác hỏi: “chỉ có một cháu thôi à? Sao lại không có cháu gái? lần sau phải có cháu gái”
Được tin các cụ, các bà trong Hội Mẹ Chiến sĩ Liên khu IV tuổi đã cao mà vẫn cố gắng học tập, Bác rất xúc động. Bác viết thư động viên: “Nhiều cụ, bà tuy tuổi tác đã cao, vẫn cố gắng học chữ, học làm tính. Thật là đáng kính, đáng quý. Chẳng những các chiến sĩ mà tôi và Chính phủ cũng biết ơn các cụ, các bà”.
Để phụ nữ thật sự tiến bộ, bình đẳng, Bác mong muốn phụ nữ cần cố gắng để góp sức vào mọi công việc, cả trong việc lãnh đạo, quản lý. Trong Di chúc Bác viết vào tháng 5-1968, Người căn dặn: “Đảng, Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Trong thư gửi đồng bào tỉnh nhà vào tháng 8-1949, Bác vui mừng khi biết xã nào cũng có phụ nữ tham gia vào hội đồng nhân dân. Bác viết: “Tôi rất vui lòng rằng xã nào cũng có phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân… Phụ nữ phải tham gia chính quyền nhiều hơn và thiết thực hơn nữa…”. Nói chuyện với Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (ngày 8-12-1961), Bác hỏi: Ban Chấp hành Đảng bộ ở đây có tất cả bao nhiêu đồng chí?… “Có mấy đồng chí gái? (“Dạ, 3 đồng chí”). Thế là thế nào? Các đồng chí gái không được 10 phần trăm. Như thế thì đồng chí gái ít quá. Các chú có nhận thấy thế không? Không được một phần mười. Ít quá!”. Tiếp đó, ngày 9-12-1961, nói chuyện với cán bộ và đồng bào tỉnh, Bác nói: Tỉnh ta có hơn 61 vạn phụ nữ, tức là một nửa dân số, là lực lượng lớn trong công cuộc xây dựng Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, “so với nam giới thì địa vị của phụ nữ trong xã hội còn quá thấp kém. Thí dụ: Ở hội đồng nhân dân các xã, phụ nữ chỉ được 15 phần trăm tổng số đại biểu. Ở các cấp đảng uỷ và chi uỷ có 5 phần trăm là nữ đồng chí”. Để khắc phục tình trạng đó, Bác đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển: “Chúng ta phải có phương pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao hơn nữa địa vị của phụ nữ”.
Từ kỷ niệm tuổi thơ
Những năm học ở bên Pháp, tôi vẫn luôn luôn hướng về Tổ quốc. Một đêm giao thừa, tất cả anh chị em người Việt Nam tụ tập tại trụ sở đón Tết của quê hương trên đất Pháp…
Tối hôm đó, Bác gặp Việt kiều ở Pari. Anh chị em Việt kiều quây quần xung quanh Bác như những người con tụ lại bên cha già. Trong tình cảm thương yêu rộng lớn, Bác dặn dò tất cả mọi người thế này: “Các cô, các chú phải cố gắng mỗi người học giỏi một nghề, sau này trở về giúp nước nhà, góp phần làm cho dân ta giàu, nước ta mạnh”. Lời dạy của Bác đã trở thành bó đuốc soi đường cho tôi suốt những năm học tập ở xa quê hương.
Giữa năm 1959, tôi thi đỗ bằng thạc sĩ toán học. Nhớ lời Bác, tôi tình nguyện xin về nước phục vụ.
Trong những năm công tác ở Hà Nội, tôi được gặp Bác ba lần, một lần Bác đến thăm Trường Đại học Sư phạm của chúng tôi. Lần thứ hai, vào dịp Tết, tôi được gặp Bác. Trong buổi liên hoan đón năm mới hôm ấy Bác rất vui. Tôi lại được ngồi gần Bác. Bác cười chỉ vào tôi và nói với các đồng chí lãnh đạo ngồi bên cạnh:
- Sao ít phụ nữ thế? Bác muốn phong trào phụ nữ tiến bộ mạnh hơn nữa…
Tôi nghĩ trong đời tôi lúc bé đã được một lần Bác dạy cho cách học, những năm sống xa quê hương, hình ảnh Bác là nguồn động viên tôi khắc phục khó khăn để học tập. Khi trưởng thành lại được Bác săn sóc từ bữa ăn. Tôi là một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam đã được Bác, Đảng, Cách mạng giải phóng và trở thành người có ích, được đem sức lực của mình phục vụ nhân dân, đất nước. Đối với tôi, không có gì sung sướng hơn là giữ gìn những kỷ niệm về Bác – cái vốn quý báu mà Bác đã trao cho tôi từ khi còn bé. Cái vốn quý đó mỗi ngày càng được nhân lên gấp bội, như cuộc đời tôi, được Bác, Đảng dìu dắt mãi mãi đi trên con đường sáng…
(Trích lời kể của nữ Giáo sư, Tiến sĩ Toán học Hoàng Xuân Sính)
Bác đã dạy tôi yêu thương con trẻ
Vào cuối tháng tư nǎm 1964, Đại hội Liên hoan Phụ nữ "5 tốt" toàn miền Bắc họp tại Thủ đô. Tất cả đại biểu về dự phần lớn là rất trẻ, nhiều cô còn trẻ hơn con dâu út của tôi, duy chỉ tôi là đầu đã bạc.
Hội trường Ba Đình bữa đó bỗng náo nhiệt hẳn lên khi nghe tin Bác đến.
Bác đến vào giữa lúc họp. Thật quá bất ngờ. Tiếng hô "Bác Hồ muôn nǎm" vang lên bắt đầu từ những hàng thế trên cùng, phút chốc loan đi khắp cả phòng họp rộng lớn này. Tôi mừng vui và cảm động đến chảy nước mắt. Nhất là khi Bác lên bàn nói chuyện thân mật, Bác lại nhắc đến tên tôi. Tôi run lên, thú thật tôi không còn tin ở tai mình nữa. Tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ! Bên cạnh tôi, cháu Trương Thanh Trúc, diễn viên Đoàn Vǎn công quân đội ghé sát vào tai tôi nói khẽ: "Mẹ Hoan, Bác nhắc đến tên mẹ!". Lúc đó tôi mới tin là không phải trong mơ, mà là sự thật. Trong đời tôi, đây là một vinh hạnh quá lớn, một điều mà chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến. Tôi là một người phụ nữ bình thường ở một khu phố nhỏ, một người thợ thủ công già, thế mà Bác lại quan tâm đến công việc làm của tôi!
Thì ra nãy giờ tôi mải ngắm Bác... Giờ đây, tiếng Người vẫn bên tai. Mãi mãi trong đời tôi ghi tạc lời dạy của Người:
"Tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân, tǎng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc".
Bác giải thích điều thứ 5 trong phong trào "5 tốt" vấn đề xây dựng gia đình nuôi dạy con cái, Bác nói: "Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát:
“Nhiễu diều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa:
“Lọ là thân thích ruột rà
Công nông thế giới đều là anh em”.
Đã là đại gia đình, thì sự sǎn sóc dạy dỗ cũng không chỉ nhằm làm cho con cháu mình khỏe và ngoan. Mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả các cháu đều ngoan và khỏe. Về việc này chúng ta có những gương mẫu như cụ Lê Thị Hoan (Bác nhắc đến tên tôi). Cụ Hoan đã có công giáo dục mấy chục cháu xấu trở thành những cháu tốt. Nếu tất cả chị em phụ nữ ta đều cố gắng làm được như cụ Hoan thì chắc rằng con cháu của chúng ta đều sẽ ngoan và tốt.
Hội trường hướng về phía tôi vỗ tay ầm vang. Lúc này tôi lúng túng quá, chẳng biết làm gì. Tôi cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên. Bác lại cǎn dặn các cấp Đảng bộ, chính quyền cần thiết thực giúp đỡ phong trào 5 tốt không ngừng tiến lên, để phụ nữ được đóng góp nhiều cho cuộc chống Mỹ cứu nước.
Sau cùng với giọng nói đầm ấm, Bác vui vẻ hỏi:
Già như cụ Hoan, sao cụ Hoan làm được? Tại sao các cô chưa làm được? Thế các cô có làm không?
Mọi người đều đáp:
- Có ạ? Bác lại hỏi:
- Bao giờ làm?
- Dạ, họp xong về làm ngay.
Làm được bao nhiêu?
- Thưa Bác làm khắp nơi ạ!
Tôi liếc mắt nhìn Bác, thấy Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng.
Thế rồi, Bác bước xuống bục. Các cô trẻ chạy tràn ra cả lối đi để đón Bác. Bỗng chị Hà Quế đi đến chỗ tôi ngồi, chị gọi:
- Cụ Hoan ơi? Cụ Hoan lên gặp Bác.
Lúc đó tôi bàng hoàng cả người. Vừa mừng vui, vừa lo lắng. Tôi cố nhấc bước lên nhưng chân tay cứ run rẩy vì quá mừng. Tôi chưa đi được mấy bước, cũng vừa Bác đến. Bác cầm tay tôi. Luýnh quýnh tôi chẳng biết nói gì, thưa gì.
Nhưng tôi toát mồ hôi, ác một nỗi các anh quay phim lại chĩa những ngọn đèn sáng rực vào phía tôi.
Như biết tôi đang lúng túng. Bác chỉ vào chiếc ghế:
- Cụ ngồi xuống đây
Tôi mạnh dạn ngồi bên cạnh Bác. Bác ân cần thǎm hỏi gia đình tôi.
- Cụ ông có khỏe không?
Thưa có ạ!
- Cụ dạy bao nhiêu cháu, các cháu hiện có ngoan không?
Tôi rất kinh ngạc, thế ra mọi việc làm của tôi và của các cháu Bác đều biết. Tôi lần lượt thưa cùng Bác số cháu nơi tôi đỡ đầu có 30 cháu. Đó là những cháu chưa ngoan. Các cháu mảng học, ham chơi bời, trèo cây, đánh nhau, có cháu ǎn cắp làm mất trật tự trị an đường phố. Mẹ cha thì buồn phiền, nhà trường lo lắng. Tôi cũng thưa với Bác những khó khǎn bước đầu trong việc tập hợp các cháu lại, tổ chức cho các cháu vui chơi, lao động và học tập. Và đến nay tôi đã có một đóng góp nhỏ đã là giáo dục được 180 cháu trở thành những đội viên thiếu niên tốt, những cháu ngoan của Bác. Có 8 cháu được chọn đến Phủ Chủ tịch liên hoan cùng thiếu nhi Thủ đô, Hè nǎm 1962. nhiều cháu đã được đeo Huy hiệu Đoàn.
Bác lại hỏi thêm.
- Các cháu đối với cụ thế nào?
- Rất thương ạ! Chúng đều gọi bằng "bà nội". Và hôm nay các cháu đều cố gắng thực hiện "5 điều Bác Hồ dạy".
Bác nhìn sang phía chị Nguyễn Thị Thập và các đại biểu rồi Bác hỏi tiếp:
- Đảng ủy, chính quyền, đoàn thể có giúp gì cụ không?
- Dạ có ạ!
- Cụ còn nguyện vọng gì nữa không?
Thưa Bác, được gặp Bác, biết Bác khỏe, là điều sung sướng nhất, và ước mong cho miền Nam giải phóng để chị em phụ nữ và đồng bào miền Nam được đón Bác, đó là nguyện vọng duy nhất của tôi, cùng là nguyện vọng của mọi người ạ.
Bác quay sang các đại biểu trẻ, vui cười nói:
- Muốn Bác mạnh khỏe, muốn miền Nam giải phóng, thì phải ra sức thi đua.
Thế là tất cả chúng tôi đều hô to: "Bác Hồ muôn nǎm?" và cứ vây lấy Người, không muốn rời Người nửa bước.
Hôm ấy về nhà, tôi đem chuyện gặp Bác kể cho các cháu nghe, thuật lại lời dặn dò của Người cho chị em phụ nữ trong khu Hội Phụ nữ Đống Đa. Ai nấy đều vui mừng, nhất là các cháu chưa ngoan phải suy nghĩ nhiều. Tôi cũng lại nói cho mọi người ở khu phố tôi nghe. Lời kêu gọi thi đua của Bác đã được đǎng lại trên báo Đảng ngay ngày hôm sau "Trong lúc miền Nam chúng ta đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới thì phụ nữ ở phía bên kia sông Bến Hải đang cùng toàn thể đồng bào miền Nam anh dũng, hy sinh anh dũng chống đế quốc Mỹ cướp nước và bọn Việt gian bán nước. Tôi đề nghị Đại hội hoan hô đồng bào miền Nam anh hùng và chúc đồng bào miền Nam giành nhiều thắng lợi hơn nữa! Chính vì chúng ta đang xây dựng trong hoàn cảnh hòa bình, còn đồng bào miền Nam đang phải ngày đêm chiến đấu nên nhân dân miền Bắc chúng ta cần phải thi đua mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt". Thế là thành một cao trào thi đua "vì miền Nam" trong các cháu. Các cháu vừa học vừa làm tǎng giờ lấy tiền mua sách, xây dựng tủ sách kết nghĩa với các bạn thiếu niên Huế, Sài Gòn, kết nghĩa anh em và góp tiền mua vũ khí ủng hộ đồng bào miền Nam đánh thắng giặc Mỹ. Nhiều cháu đã trở thành những công nhân, cán bộ trong các cơ quan, xí nghiệp. Nhiều cháu đã lên đường giết giặc, như cháu Quách Vǎn Long cùng anh em bắn rơi máy bay Mỹ được Bác tặng huy hiệu.
Cháu Phạm Vǎn Phương, Nguyễn Vǎn Ý lái xe cho bộ đội pháo binh, cháu Nguyễn Vǎn Thanh, Nguyễn Vǎn Thao là học sinh giỏi toàn huyện. Nhiều cháu đi học xa tận các nước đã về làm thợ, làm cán bộ như các cháu Hoàng Đình Nội, Cao Đắc Quý... các cháu cùng chúng tôi có chút ít thành tích nhỏ như vậy là nhờ công ơn dạy bảo của Bác, của Đảng. Và chính Bác là người dạy cho tôi tình yêu trẻ, cách giáo dục trẻ. Lúc sinh thời, người là "Ông Cụ trồng cây giỏi nhất nước". Và cũng vì yêu cây yêu người, Bác đã từng nói "Vì lợi ích mười nǎm trồng cây, vì lợi ích trǎm nǎm trồng người cho thế hệ mai sau.
"Nhà cháu mà không đến thì đến nhà ai!"
Mùa xuân năm 1962, trời lạnh đến tê tái. Một tháng trước tết, Bác Hồ gọi cục phó Cục Cảnh vệ Phan Văn Xoàn lên giao một nhiệm vụ đặc biệt mà chỉ có hai bác cháu biết: “Chú tìm cho bác một gia đình nghèo nhất ở Hà Nội, bác sẽ đi thăm họ lúc giao thừa!”.Tôi có một tháng để đi khắp Hà Nội tìm cho ra một người nghèo nhất.
Hà Nội ngày ấy không giàu, nhưng để tìm ra người “nghèo nhất” vẫn là một thách đố đặc biệt. Tôi liên hệ nhiều nơi, gặp nhiều người vẫn chưa xác định được ai “nghèo nhất”. Cho đến một ngày, một anh công an địa bàn gọi bảo tôi thử tới thăm một người phụ nữ gánh nước thuê ở khu vực anh.
Chúng tôi ghé vào một ngõ sâu trên phố Hàng Chĩnh, đó là một ngôi nhà tăm tối, phên liếp tạm bợ, bên trong chỉ có một chiếc giường tre và vài ghế gỗ lăn lóc. Bàn thờ lạnh tanh hương khói, mạng nhện bao phủ - dù đang là những ngày giáp tết. Có bốn đứa trẻ đang nằm ngồi vật vạ chờ mẹ mang gạo về. Chúng đói. Chủ ngôi nhà ấy là một người phụ nữ ngoài 40 tuổi, tên Nguyễn Thị Tín, góa chồng. Chị vốn là công nhân thất nghiệp và từ lâu nay sống bằng nghề gánh nước thuê. Với chị, tương lai và sự nghiệp của gia đình chỉ là con số 0.
Tôi báo cáo rằng nhiệm vụ Bác giao tôi đã làm xong. Bác gật đầu.
Tối giao thừa ấy, như thường lệ, Bác Hồ đi với đại diện Thành ủy Hà Nội thăm vài gia đình trong kế hoạch. Khoảng 11 giờ tối, Bác nháy mắt với tôi ngụ ý: giờ đến chương trình của hai bác cháu mình.
Chúng tôi tách đoàn, gồm năm người: Bác, người thư ký, một cán bộ địa phương, tôi và một vệ sĩ khác - cùng hướng về phố Hàng Chĩnh. Bác mặc áo bông, quần vải gụ, đi dép cao su, đội mũ len đen và quấn khăn choàng cổ. Không hóa trang nhưng phải nhìn kỹ một tí mới nhận ra Bác được.
Xe dừng ngoài ngõ cách 200 mét, cả đoàn phải đi bộ vào. Tôi đi trước, gần giờ giao thừa, hương đèn thắp sáng trên mọi bàn thờ. Con hẻm thật vắng và từ đằng xa, tôi thấy bóng chị Tín đang quảy đôi quang gánh đi ngược ra ngoài phố. Ngang mặt, tôi đứng lại và hỏi nhỏ: “Chị Tín phải không?”. “Vâng ạ!”. “Sắp giao thừa chị còn đi đâu?”. “Tôi tranh thủ gánh thêm vài gánh lấy ít tiền mua quà bánh tết cho các cháu, anh ạ!”. “Chị về đi, có khách ghé thăm!”.
Người phụ nữ nghèo khổ xoay người lại nhìn những vị khách, rồi chị bàng hoàng buông rơi đôi quang gánh, chạy bổ tới, quì xuống, ôm choàng lấy chân vị lãnh tụ rồi khóc nấc lên: “Trời, sao Bác lại đến thăm nhà cháu?”. Bác Hồ rưng nước mắt: “Nhà cháu mà không đến thì đến nhà ai!”. Mọi người im lặng. Tôi, thêm một lần nữa, ngước nhìn vị lãnh tụ đất nước mình, thấy Người cao hơn tất cả.
Vào nhà, chúng tôi chia nhau thắp nhang đèn, bày quà bánh Bác dặn mang theo, chia một ít cho bốn đứa trẻ đang ngồi chờ mẹ trên chõng tre giữa nhà. Căn nhà bừng sáng, Bác quay sang hỏi về những đứa trẻ: Các cháu có đi học không? Chị Tín ngập ngừng: “Thưa, có ạ, nhưng thất thường lắm, ngày có ngày không. Chồng mất, cháu thất nghiệp, gánh nước thuê…”. Hỏi: Gánh nước thuê có đủ sống không? Ðến đây thì chị òa khóc: “Lo cái ăn từng ngày thôi, thưa Bác!”. “Giờ cháu có muốn làm việc không?”. “Thưa Bác, hoàn cảnh cháu thì không biết nói sao nữa, cháu muốn có chỗ làm để nuôi con, nhưng tứ cố vô thân, ai nhận cháu?”. Bác gật đầu không nói gì.
Gần 12 giờ, mọi người chúc tết chị Tín và ra về. Lúc này ngoài đầu ngõ, tin Bác Hồ đến thăm nhà mẹ góa con côi của chị Tín đã bất ngờ lan truyền. Hàng xóm rủ nhau khoảng mấy chục người dân đứng chật trong ngõ chờ Bác ra. Tôi hơi bối rối. Bất thình lình Bác bước lại phía mọi người, tiếng vỗ tay vang lên.
Chờ mọi người im lặng, Bác nói: “Bữa nay Bác vui vì tình cờ gặp các cụ, các cô chú, nhưng Bác cũng rất buồn vì mới từ nhà cô Tín ra. Giờ này sắp giao thừa, các cô chú có biết cô Tín còn đi gánh nước thuê không? Tại sao cả một khu phố vầy mà không thấy ai quan tâm đến một gia đình như cô Tín?”. Im lặng, một đại diện khu phố nhận lỗi, hứa sẽ quan tâm nhà chị Tín. Bác tiếp tục: “Bác muốn nói về tinh thần “lá lành đùm lá rách” trong khu phố, nhưng cái lớn nhất vẫn là trách nhiệm của Chính phủ...”.
Bước lên xe, đó là năm đầu tiên tôi thấy đi chúc tết người dân về mà Bác thật buồn. Người quay sang nói: “Các chú thấy chưa? Hôm nay mình đã đi đúng người thật việc thật rồi, nếu mà mình báo trước với thành phố, hỏi nhà nào nghèo nhất thì chắc chắn không phải là nhà cô Tín rồi…”.
Về nơi Bác ở, Bộ Chính trị đã tập họp để chúc tết Bác và cùng đón giao thừa. Bác ngồi vào ghế, mọi người ngồi xung quanh. Bác im lặng tí rồi nói từ từ: “Bữa nay tôi có một chuyến thăm một nhà nghèo nhất thủ đô Hà Nội. Cô Tín, chủ nhà, giờ này còn phải đi gánh nước thuê để có tiền mai mua gạo cho con. Chúng ta đã quá quan liêu để không biết những câu chuyện như vậy ở ngay tại thủ đô đất nước mình. Tôi biết không chỉ có một nhà như chị Tín đâu, người nghèo còn nhiều. Một đảng cầm quyền mà để người dân mình nghèo hết còn chỗ để nghèo thì đó là lỗi của Ðảng với nhân dân...”.
(Theo lời kể của Thiếu tướng Phan Văn Xoàn - nguyên là cận vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng hoa phong lan cho ba đại biểu nữ dân quân Quảng Bình và Vĩnh Linh, năm 1968
TRƯỜNG HỌC CỦA BÁC
Muốn công tác tốt phải học thật tốt
...Tháng 11-1959, tôi được điều về công tác ở phòng y tế huyện. Chưa đầy một năm, tháng 9-1960, tôi lại được về tỉnh học bổ túc văn hóa. Không ngờ dịp này, hân hạnh cho tôi: Được gặp Bác Hồ! Tháng 3-1961, Ban Giám hiệu cho biết sẽ có cán bộ Trung ương về thăm. Chúng tôi đều đoán già đoán non, chưa biết là ai. Mọi người còn đang bàn tán giữa sân thì một đoàn ô tô nối đuôi nhau chạy vào cổng. Chúng tôi hồ hộp chờ đợi.
Bỗng mọi người cùng reo lên:
- Bác Hồ! Đúng Bác Hồ rồi!
Bác tiến vào giữa tiếng hoan hô reo mừng vang dậy.
Bác đi thăm xung quanh nhà, rồi đến chỗ ăn, chỗ ngủ của chúng tôi. Đến đâu Bác cũng khen sạch sẽ và dặn mọi người chớ để Bác đi rồi lại ở bẩn. Rồi Bác hỏi các em ở trường vùng cao có được ăn no không, có được mặc ấm không, đã biết ngủ màn chưa, biết tập thể dục chưa, có nhớ nhà không?...Tôi nhớ nhất Bác dặn điều này:
- Các cháu là cán bộ dân tộc, phải làm sao lo cho đồng bào các dân tộc được ăn no mặc ấm, không tin vào ma quỷ. Muốn thế, các cháu phải công tác tốt, Muốn công tác tốt bây giờ phải học tập thật tốt đã.
Sau đó, Bác phê bình một số anh chị em khi ra tỉnh đua đòi ăn mặc, lúc trở về lại nói tiếng Kinh, không chịu nói tiếng mẹ đẻ của mình. Tuy nhiên, Bác không ngăn cấm việc học tiếng dân dân tộc khác mà còn khuyến khích. Cuối cùng, Bác dặn:
- Người dân tộc này phải học tiếng nói của dân tộc khác để hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ nhau học tập, và sau này nếu đi công tác ở vùng không phải dân tộc mình cũng làm việc được tốt hơn.
Trước lúc ra về, Bác bảo:
- Các cô, các chú, các cháu công tác thật tốt, học thật tốt, lần sau Bác sẽ lên thăm nữa. Các cháu có dám hứa với Bác lần sau Bác lên sẽ có thành tích bằng ba bốn lần thế này không nào?
- Dạ, thưa Bác, có ạ!
Vâng lời Bác dạy, ngày đêm tôi chăm chỉ học tập. Cuối khóa tôi được bầu là học viên giỏi. Riêng về tiếng dân tộc, ngoài tiếng Tày tôi đã thạo, tôi còn học thêm được ít tiếng Cóc Mùn, Thanh Y. Và đúng như lời dạy của Bác, nhờ tiếng dân tộc mà việc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau học tập của toàn trường càng về cuối khóa càng tốt.
Tôi trở về huyện, đi xây dựng cơ sở phòng bệnh các xã. Chưa đầy năm tháng, lại được cử về Thái Nguyên học trường y sĩ. Ban đầu, tôi không muốn nghĩ rằng mình công tác chưa là bao, cử đi học hết lớp này đến lớp khác, cấp trên ưu tiên nhiều quá, ngượng lắm. Các đồng chí huyện bảo: “Đảng và Bác cho cô đi học để sau này phục vụ sức khỏe đồng bào các dân tộc được nhiều. Cô phục vụ được nhiều, được tốt là đền đáp được công ơn đó. Cô cứ về học cho thật giỏi, chớ có ngại ngần gì”.
(Theo Bác Hồ sống mãi với chúng ta, T.2, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005)
Trường học của bác
Có lần nhân câu chuyện kể với các bạn trẻ trong khu Phủ chủ tịch, Bác nói:
“Các cô, các chú bây giờ đi học có trường, có bàn ghế, có thầy cô, có bạn bè, sách vở, giấy bút, có giờ giấc đàng hoàng. Tối đến có đèn điện, thế mà một năm không lên được một lớp là không đúng. Ngày xưa, lúc Bác đang tuổi các cô, các chú thì tất cả bàn ghế, thầy cô, bạn, sách vở, giấy bút chỉ có trong bàn tay này thôi”.
Bác giơ bàn tay trái lên nói tiếp:
“Hồi ấy Bác làm bồi tàu, là người quét tuyết ở Anh, rồi đi làm phụ bếp. Làm việc từ sáng đến tối, suốt ngày không được cầm đến tờ báo mà xem. Đến đem mới hết việc, mới được đọc sách, đọc báo. Ban ngày muốn học chỉ có một cách là viết chữ lên mảnh da tay này. Cứ mỗi buổi sáng viết mấy chữ, rồi đi cọ sàn tàu, cọ thùng, đánh nồi, rửa bát, thái thịt, băm rau, vừa làm vừa nhìn vào da bàn tay mà học. Hết ngày, người thì đầm đìa mồ hôi, chữ thì mờ đi, cuối buổi đi tắm mới xóa được chữ ấy đi. Coi như đã thuộc, sáng mai lại ghi chữ mới.”
Sách Hồ Chí Minh, đồng chí của chúng ta gồm nhiều hồi ký của các bạn Pháp viết, Nhà xuất bản Xã hội Pari in năm 1970, có trích một đoạn Bác trả lời phóng viên A. Kan(báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp) như sau:
“Tôi không có hạnh phúc được theo học ở trường đại học. Nhưng cuộc sống đã cho tôi cơ hội được học lịch sử, khoa học xã hội và ngay cả khoa học quân sự. Phải yêu cái gì? Phải ghét cái gì? Cũng như tôi, tất cả người Việt Nam cần phải yêu độc lập, lao động, Tổ quốc”.
“Tất nhiên không phải riêng tôi mà toàn thế giới đều kính trọng những nhà báo chân chính. Tôi cũng có thời gian học làm báo, cũng có thời gian tôi bỏ ngòi bút, cầm súng để chống lại kẻ thù, chống lại chủ nghĩa thực dân. Khi tôi còn ở Pháp, khi còn biết ít tiếng Pháp, tôi đã là tổng biên tập, biên tập và phát hành cả một tờ báo.”
Bác thường nói với cán bộ:
“Học thêm được một thứ tiếng nước ngoài coi như có thêm một cái chìa khóa để mở thêm một kho tàng tri thức. Việc học là việc suốt đời.”
(Theo Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, 2007)
Hai bàn tay
Sài Gòn năm 1911. Năm ấy, Bác Hồ hai mươi mốt tuổi. Một hôm, anh Ba - tên của Bác Hồ bấy giờ - được một người bạn đưa đi xem đèn điện ở trước của tiệm cà phê của Pháp, xem chiếu bóng và máy nước. Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy.
Hai người dắt nhau đi nhiều nơi trong thành phố, những cảnh tượng đầy rẫy bất công đập vào mắt họ. Đột nhiên anh Ba hỏi người bạn:
- Anh Lê, anh có yêu nước không?
Người bạn ngạc nhiên và đáp:
- Tất nhiên là có chứ.
Anh Ba hỏi tiếp:
Anh có thể giữ bí mật được không?
- Có!
- Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi ốm đau. Anh có muốn đi với tôi không?
Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
Đây, tiền đây! - Anh Ba vừa nói vừa giơ hai bàn tay - Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ?
Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của anh Ba, anh Lê đồng ý. Nhưng sau đó anh Lê không đủ can đảm để giữ lời hứa. Thế là chỉ có một mình anh Ba, rời cảng Nhà Rồng bước chân xuống tàu để đi sang các nước, trước hết là sang Pháp.
Với quyết tâm và lòng yêu nước sâu sắc, Bác đã làm nhiều nghề khác nhau như: phụ bếp, bồi bàn, quét tuyết,...suốt từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối hằng ngày. Bác chỉ mong sao tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
Ý chí, nghi lực của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành thật lớn lao, niềm tin và lý tưởng của anh thật cao đẹp. Và lý tưởng, niềm tin ấy đã trở thành sự thực, bởi chính sự ra đi của anh đã mở ra bước ngoặt cho dân tộc và sau đó mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
(Theo Chuyện kể về Bác Hồ, Vũ Kỳ chủ biên, Nxb. Giáo dục, 1982)
Bác tập cho chúng tôi có kế hoạch lao động
Hồi ở Pác Pó, sáng ra Bác thường bố trí công việc cho chúng tôi làm. Ai không có việc được Bác tìm việc cho. Ai đã sắp xếp được công việc trong ngày, Bác thấy vui dù việc làm ấy rất nhỏ. Bác thường hỏi từng người:
-
Hôm nay chú định làm gì?
-
Thưa Bác, vá áo ạ!
-
Được! Còn chú kia?
-
Thưa Bác, nghiên cứu tài liệu ạ!
-
Được! Còn chú này chưa có việc gì à, sách này hay đấy, chú đọc đi.
Tôi cũng như các anh em khác thường được Bác chăm lo như vậy. Đặc biệt là khi chúng tôi nghiên cứu tài liệu, Bác thương hướng dẫn rất chu đáo giúp chúng tôi đi vào nền nếp. Đối với anh chị phục vụ, Bác cũng ân cần chỉ bảo. Tôi nhớ có lần Bác nói với chị Trưng người Cao Bằng:
- Nấu cơm, rửa bát cũng phải có trật tự, có kế hoạch cụ thể. Trước khi nấu cơm phải kiếm củi rồi mới đổ gạo vào nồi vo, rồi nhóm lửa và chạy đi lấy lá đợi cơm cạn đậy vào. Chứ vo gạo rồi mới chạy đi kiếm củi thì thật là vô lý.
Việc nhắc nhở thương xuyên của Bác rèn luyện cho mọi người ở cạnh Bác có một thói quen sắp xếp công việc hàng ngày, rèn luyện cho bộ óc chúng tôi quen làm việc có kế hoạch, tránh sự tùy tiện tản mạn và nhất là tránh nhàn rỗi.
(Theo Chúng tôi có Bác Hồ, Nxb. Lao Động, 2001).
Bác rèn luyện sức khỏe
Bác chú ý rèn luyện sức khỏe rất đều đặn. Trong thể thao, Bác thích các môn: Võ, bóng chuyền và bơi. Năm 1945, khi đang ở 12 Ngô Quyền, Bác nói:
Tôi hướng dẫn cho Bác bài Bát bộ liên hoa quyền, gồm bốn mươi chín động tác trong một tuần. Khi thuộc rồi, hằng sáng Bác thường tập bài quyền.
Vì thích bóng chuyền và bơi nên Bác đề ra nguyên tắc chỗ ở của Bác trên Chiến khu nên cách nới Chính phủ đóng khoảng 3km, phải có bãi để làm sân bóng và có suối để bơi. Tìm được chỗ ở như vậy cũng khó nên chúng tôi xin phép Bác tìm sân, suối cách đó từ 500m đến 1km.
Sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc, Bác cháu cùng nhau đánh bóng chuyền. Hôm nào không đủ người đánh bóng chuyền thì đi bơi. Tôi thường bố trí hai người khỏe để bảo vệ Bác.
Về mùa hè, những lần Bác đi công tác phải trải qua sông, qua suối, chúng tôi thường chuẩn bị thuyền hoặc mảng để đưa Bác qua. Nếu nước lớn, chảy xiết thì Bác đi thuyền. Gặp những hôm trời lặng, nước chảy từ từ thì Bác không chịu ngồi thuyền, ngồi mảng mà tự bơi. Chúng tôi cử một người bơi giỏi cùng bơi với Bác. Lên bờ, Bác nói:
Sau này những phim tư liệu hiếm hoi ghi lại cuộc sống của Người trên chiến khu cho chúng ta thấy được hình ảnh của Bác lội suối, băng rừng, đầu đội tấm áo vừa đi, vừa phơi cho khô. Hình ảnh của một vị lãnh tụ thật gần gũi với nhân dân.
Về Hà Nội, điều kiện bơi và đánh bóng bị hạn chế nên năm 1959 chúng tôi đưa Bác ra Bãi Cháy nghỉ vài ngày. Sáng lấy ca nô đưa Bác ra đảo nghỉ ở đó đến tối mới về, đem theo cả nồi niêu nấu cá luôn. Những chuyến đi như thê này giúp Bác nghỉ ngơi, thư giãn và có điều kiện gần dân hơn.
(Theo Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ, Nxb. Thông tấn, 2003)
Bác Hồ và câu chuyện về cuộc vận động xây dựng cuộc sống mới
Đó là câu hỏi đầu tiên của Chủ tịch khi Cụ bước vào phòng khách. Sau khi vui vẻ mời chúng tôi ngồi, Cụ tiếp ngay:
-
Cái ông nhà báo nào công bố ngày sinh của tôi thật đáng phạt. Trước hết tôi chưa thấy cái già là cái gì. Ngoài năm mươi tuổi chưa gọi là già. Sau nữa, chúng ta đang ở thời kỳ công tác, chưa đến lúc phải cần đến hình thức lễ nghi như chúc thọ.
Buổi sáng mùa hè hôm đó, nước da của chủ tịch có một màu hồng khỏe mạnh và đôi mắt sáng ngời, đôi mắt của thanh niên.
Có mấy đoàn thể cùng vào chung để chúc thọ. Giới thiệu đến Uỷ ban Đời sống mới, Cụ bỗng hỏi như níu lại:
Đóng khung câu chuyện, Cụ hỏi dồn dập, chăm chú, không cho chúng tôi lảng sang vấn đề khác. Buổi chúc thọ Hồ Chủ tịch bỗng biến thành buổi thảo luận ráo riết và đầy thân mật về đời sống mới.
-
Chú cho tôi biết cuộc vận động đời sống mới đến đâu rồi?
-
Thưa Cụ - tôi đáp, chúng tôi đã bắt đầu bằng sự chia ra các ban nghiên cứu, tổ chức,v.v. Nhưng công việc chính là định rõ cái hướng cho đời sống mới. Mấy khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính” chúng tôi xét ra vừa không đủ, vừa cổ...
-
Cổ! Lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa, bây giờ mình cũng ăn cố à?
Không khí trở nên náo nhiệt, vui vẻ. Lời nói của Chủ tịch làm nở tiếng cười chung.
-
Thưa Cụ - tôi trả lời bằng cách tiếp nối câu mình đang nói dở, - sau mấy buổi họp, Uỷ ban vận động đời sống mới đã định rõ ba nguyên tắc cho đời sống mới là: dân tộc, dân chủ, khoa học.
Chủ tịch như đang ngơ ngác trước những danh từ to lớn của tôi. Thực tình tôi lo: nếu Chủ tịch không hiểu thì quần chúng hiểu sao đây. Mà quả thật, Cụ đứng hẳn về phía quần chúng. Cụ nói:
Mọi người nhìn nhau và tôi không giấu nổi vẻ bối rối. Tôi nói về tuyên truyền, tổ chức,.. Cụ lắng nghe. Một họa sĩ ngồi đối diện Cụ Hồ ở cuối bàn, lặng lẽ ghi trên giấy hình ảnh vị Chủ tịch hòa nhã. Khi tôi nói hết, Cụ lắc đầu nhìn tôi, nhìn mọi người, tay gân guốc vỗ vào bụng và nói:
-
Trước hết là cái này. Dân chúng cần cái này trước tiên, phải ăn đã, chú không ăn thì chú đi tuyên truyền được không? Mà muốn ăn thì phải làm gì?
-
Phải làm việc, - một anh bạn nói
-
Đúng, phải làm việc, phải siêng năng, thế là “cần” đấy. Ừ, muốn dùng cái tiếng gì rõ hơn cũng được, nhưng điều cốt yếu là khẩu hiệu phải thiết thực. Ví dụ bây giờ vận động tập thể thao mà lại hô hào đánh ten nít thì có mấy ai có tiền mua vợt, mua quả banh? Ở đây ngay trước Bắc Bộ phủ nhiều anh em cứ ra đường chay, tập luyện với nhau không tốn mấy mà khỏe, vui lắm. Phải thiết thực như thế, mà đừng nên tung ra nhiều khẩu hiệu quá. Ít mà thực hiện được đến nơi đến chốn thì hơn. Sau nữa, muốn cho cuộc động có kết quả thì người đi vận động phải làm gì?
Cả bọn chúng tôi người bàn thế này, người bàn thế nọ. Cụ chậm rãi nói một cách nghiêm trang.
Và sợ chúng tôi hoài nghi, Cụ nhắc lại:
Cụ đưa mắt nhìn mọi người như để căn dặn điều đó
... Đến đây Cụ đứng dậy vì có khách chờ.
(Theo Người là Hồ Chí Minh (Tập hồi ký), Nxb. Hội nhà văn, 1995)
“Hỡi ai bưng bát cơm đầy”
Tôi còn nhớ như in vào một buổi sáng hè (tháng hè năm 1960), sau khi dự Đại hội đoàn kết chống hạn tại Ứng Hòa - Mỹ Đức xong, Bác ra cánh đồng thôn Thái Bình, xã Vạn Thắng (Ứng Hòa) thăm nông dân chống hạn.
Những năm ấy, vì hệ thống mương máng, thủy lợi chưa có là bao nên bà con nông dân rất vất vả, nắng quá thì hạn, mưa nhiều thì úng. Đời sống của người nông dân thật bấp bênh.
Hôm ấy, Bác mặc quần áo gụ, đội mũ lá cọ, chân đi dép cao su, quần xắn đến đầu gối, khăn vắt trên vai, tay chống gậy đi ra cánh đồng thăm bà con nông dân đang tát nước.
Mới 10 giờ mà trời nắng như đổ lửa, chúng tôi – những cán bộ đi theo cũng thấm mệt, mồ hôi vã ra như tắm tràn xuống mắt giàn giụa, tràn xuống miệng mặn chát. Bác đi rất nhanh, mặc dù đường sống trâu, Bác vẫn thoăn thoắt đặt chân trên các gồ đất cách nhau 30-40 cm một cách nhẹ nhàng như một lão nông thực thụ. Đến dầu một con mương, đồng chí chủ tịch Hà Đông thấy bờ mương hẹp, khó đi, vội chạy lên trước để mời Bác đi theo đường chính. Bác xua tay và rẽ vào bờ mương để đến chân ruộng bà con đang lao động giữa cánh đồng bị hạn. Tất nhiên chúng tôi phải đi sau và cố hết sức mới kịp. Đến một chỗ bờ mương bị xé ra 1,5m để tát nước gần đấy, đồng chí Chủ tịch lại chạy lên định dắt Bác đi, chưa kịp thì Bác đã nhảy phắt và đi tiếp sang bên kia. Những người đi sau, người nhảy qua được, người phải men xuống ruộng để qua.
Thấy Bác đến, lại còn mặc như lão nông, bà con vui mừng bỏ cả gầu đổ xô lại vây quanh Bác rất đông. Có cháu thiếu niên 14-15 tuổi len đến gần Bác, đưa tay lên vuốt râu Bác. Bác thân mật hỏi thăm mọi người, bắt tay bà con, rồi nói bằng giọng miền Bắc pha xứ Nghệ ấm áp:
Thuở nhỏ, đã nhiêu năm, tôi sống với bà con làng xóm làm nông nghiệp, tôi hiểu nỗi cơ cực cả bà con khi trời hạn hán. Bây giờ chúng ta có chính quyền, bà con làm chủ ruộng đồng, gặp lúc thiên tai, phải cùng nhau chống hạn, cứu lúa.
Mọi người “vâng ạ!” thật rõ và to.
Sau đó Bác lên đạp guồng cùng một Bác nông dân ngoài 50 tuổi, để bác nông dân đỡ vất vả và được nhiều nước, Bác căn dặn chính quyền thôn xã phải tích cức huy động bà con biết nghề mộc xẻ gỗ để đóng guồng.
Bà con hỏi Bác đủ thứ chuyện. Bác đều trả lời thân mật, dễ hiểu. Trước khi chia tay với bà con nông dân, Bác đã đọc hai câu thơ:
“Hỡi ai bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Mọi người xúc động đứng mãi tại nơi đã gặp Bác, vẫy chào tạm biệt.
Theo Bác Hồ, con người và phong cách, Nxb. Trẻ, 2005
Muốn làm nhà phải trông cây
Cuối năm 1968, Tông cục trưởng Lâm nghiệp được Bác mời lên báo cáo về tình huống cây gây rừng. Sau khi thú thật với Bác làm mấy năm nay, phần thì thiên tai, lũ lụt, phần thì địch phá hoại, phần lớn nữa là dân đót rừng, chặt cây, gây cháy rừng nên rừng bị phá hoại nhiều trong khi dân vẫn cần nhiều gỗ để làm nhà. Nhà nước cần giữ rừng để chống lụt, giữ nước đầu nguồn,...Tổng cục trưởng nói:
Câu nói đùa mà thật nghiêm túc, tuy có vẻ bi quan. Bác ngồi lặng yên, nói với anh cả Nguyễn Lương Bằng có thể sắp xếp để Bác đi thăm rừng...
Và Tết năm 1969, Bác lại viết bài “Tết trồng cây”...
Một đồng chí ở Nghệ An cho biết vào cuối năm 1961, trong một lần nói chuyện vơi toàn bộ ban chấp hành tỉnh Nghệ An, Bác đã mách cho biết “trồng cây gây rừng là rất quan trọng. Bây giờ dân chưa thấy đâu. Có khi các chú cũng chưa thấy”. Người phổ biến kinh nghiệm “Trồng cây 5 năm là có thu hoạch. Thí dụ như, nhãn 5 năm có quả, dừa 7 năm, bưởi nếu chiết thì nhanh hơn. Cây thầu dầu 3 năm có thể làm cột được. Lấy trung bình cây 7 năm, cây 5 năm, cây 2 năm, ta cho là cây 5 năm. Nếu trồng cây nào tốt cây ấy thì trong 5 năm cái lợi rất to: Cây thì làm gỗ được, cây thì ăn quả được,...Nông thôn của ta, nhà ở của đồng bào phần lớn đều ọp ẹp, tối tăm chả ra sao, chả có hàng lối gì cả. Có phải thể không? Dân sinh là cái gì?. Là cái ăn, cái mặc, cái ở. Ba cái đó đều quan trọng. Ăn, mình gia tăng được. Mặc, mình gia tăng sản xuất được. Chứ còn nhà ở thì sao? Muốn làm nhà thì phải có cái gì? Gỗ -Muốn có gỗ thì phải trồng cây...”
Bác hỏi đồng chí Bí thư:
Bác nhấn mạnh chữ “định” ý muốn nhắc Nghệ An đã “quyết” chưa?
Bác giao hẹn:
39 đồng chí tỉnh ủy viên, trong đó có 3 nữ ( không được một phần mười “ít quá” như Bác đã nhận xét buổi đầu câu chuyện), đều hứa sẽ thực hiện đúng lời Bác dạy.
(Theo Nhớ lời Bác dạy, Nxb. Lao động, 2001).
Người không học thì như đi ban đêm không có đèn
Giữa tháng 5 năm 1946, được tin đoàn cán bộ miền Nam ra Bắc đang ở tại nhà ông Bộ trưởng Bộ giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm đoàn. Người hỏi thăm sức khỏe của đoàn và tình hình Nam Bộ. Khi biết chiến trường cán bộ rất cần súng, Người nói: “Thế nào Trung ương và Chính phủ cũng có súng gửi vào Nam. Nhưng nước ta còn nghèo, các cô chú về, phải đánh Pháp cho giỏi, cướp lấy nhiều súng của nó dùng thì cái vốn đó mới nhiều”.
Người hỏi chuyện từng người và căn dặn đồng chí Nguyễn Thị Định: “Cô ở ngoài này học tập một thời gian rồi về tiếp tục kháng chiến với bà con. Người cách mạng phải học tập suốt đời, học lý luận, học quần chúng, học thực tế. Người không học thì như đi ban đêm không cáo đèn, có gậy, dễ vấp té, có phải thế không?”
(Nxb. Văn học giải phóng, 1976)
Kiên trì chống lại tuổi già và bệnh tật
Sang đến năm 1967, Bác Hồ của chúng ta đã già và yếu đi nhiều. Nhưng ngày ba bữa, Bác vẫn tự mình từ nhà sàn đi bộ xuống nhà ăn. Một phần, không muốn phiền anh em phục vụ, phần nữa, Bác muốn đặt ra cho mình một kỷ luật, buộc mình phải vận động, rèn luyện, chống lại suy yến của tuổi già.
Các đồng chí phục vụ Bác rất áy náy. Phần thương Bác vất vả, ngày nắng còn ngày mưa, phần lo Bác già yếu, chẳng may vấp nã, nếu có chuyện gì thì ảnh hưởng lớn đến công việc của đất nước và của Đảng.
Ngày đó, con đường quanh ao cá chưa được tôn tạo như bây giờ. Sau những trận mưa lớn, đường đi còn ngập nước. Nhưng đến giờ ăn, dù đang còn mưa, Bác vẫn xắn quần quá đầu gối, cầm ô, cùng đồng chí bảo vệ, lội nước đi sang nhà ăn. Nhìn ống chân Bác gầy gò, nổi gân xanh, anh em thương Bác, trào nước mắt, nhưng không sao thuyết phục được Bác cho phép dọn cơm bên nhà sàn.
Bác nói: Các chú muốn chỉ một người vất vả hay muốn cho nhiều người cũng phải vất vả vì Bác.
Có hôm, buổi sớm, Bác vào thay quần áo xong, đến bữa, gặp trời mưa, Bác không muốn các đồng chí phục vụ phải giặt nhiều, Bác cởi quần dài, gập lai, cắp nách, sang đến nơi mới mặc vào. Bác coi mình cũng chỉ là một người phục vụ và xem các đồng chí phục vụ cũng như mình nên không muốn làm phiền ai. Tuy vậy, các đồng chí phục vụ Bác vẫn cố gắng tìm mọi cách để có thể thay đổi tình tình ấy.
Một hôm, Bác gọi cho chị Trần Thị Lý, người con gái miền Nam vào ăn cơm với Bác. Bác mờ vào ngày Chủ Nhật, nhưng hôm đó đồng chí Lý lại đi vắng nên hôm sau chị mới vào được.
Hôm đó, trời mưa rất to. Đồng chí Vũ Kỳ cho dọn cơm ngay bên dưới nhà sàn để Bác ăn cùng chị Lý. Thương chị Lý thương tật, đau yếu, đường mưa trơn, đi lại khó khăn, bữa đó Bác Hồ đồng ý ở lại ăn cơm dưới nhà sàn. Hôm sau, các đồng chí phục vụ lại dọn cơm dưới nhà sàn,mời Bác ăn, coi như đã có một tiền lệ và không thỉnh thị Bác. Nhưng Bác đã cho gọi đồng chí Vũ Kỳ đến và phê bình:
- Các chú muốn để Bác hư thân đi có phải không?
Ý Bác đã rõ, Bác muốn mỗi ngày ba bữa, mỗi bữa ăn, đi vòng quanh hồ một lần, như một kỷ luật với bản thân. Tuổi già, cũng giống như trẻ thơ, muốn được chiều chuộng. Bác biết: nếu dễ dãi với mình và để người khác dễ dãi với mình dần dần sẽ hư thân đi.
Không ai sinh ra đã trở thành lãnh tụ. Muốn trở thành vĩ đại nhân, phải có chí rèn luyện. Làm Chủ tịch nước tồi, trở thành lãnh tụ kính yêu của cả giai cấp và dân tộc rồi, Bác Hồ vẫn không ngừng rèn luyện. Vì vậy, ở vị trí càng cao, càng nổi tiếng, tinh hoa, phẩm chất, đạo đức của Bác càng sáng, càng trong.
(Theo Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị - Hành chính, 2009, tr.219 - 220).
Có thể cho người nghèo những thứ ấy
Khoảng cuối năm 1913, Bác Hồ- lúc bấy giờ gội là Nguyễn Tất Thành - đã đến Luân Đôn - thủ đô của nước Anh. Ở đay có thời gian Bác phải làm phụ bếp cho khách sạn Các-tơn.
Ở khách sạn Các- tơn, hằng ngày có người phục vụ dưới bếp. Những người này, sau khi khách ăn xong, có nhiệm vụ phải thu dọn bát đĩa... và đổ tất cả thức ăn thừa vào một thùng to rồi đem đổ đi. Có những khi thức ăn thừa là một phần tư con gà, hau cả đĩa bánh mì và những miếng bít tết to tướng...
Đến lượt anh Thanh làm phụ bếp, những thức ăn thừa của khách, anh đem để riêng và đậy lại cẩn thận, sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng rồi đưa cho nhà bếp.
Thấy vậy ông đầu bếp Ết-cô-phi-e hỏi lại anh:
Anh Thành điềm tĩnh trả lời:
- Không nên đem vứt đi những thứ này. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy.
- Câu nói của anh Thành làm ông đầu bếp rất ngạc nhiên, vì ông thấy từ trước đến nay, chưa có ai ở khách sạn này nghĩ và nói như anh Thành.
Ông chủ bếp và mọi người nhìn anh, biểu hiện một sự quý mến và khâm phục trước tấm lòng yêu thương của anh trước người nghèo khổ.
(Theo Vũ Kỳ- Thư ký của Bác Hồ kể chuyện.
Nxb. Chính trị Quốc gia, H,2005).
Hành trang giản dị
Tư trang của một vị Chủ tịch nước như Bác Hồ thật đặc biệt, bởi nó quá giản dị. Có lẽ những thế hệ mai sau khi nghe kể cho đó là một huyền thoại. Đôi dép cao su làm từ lốp cũ xe hơi, Bác dùng đến mòn vét phải đóng đinh bao nhiêu lần mà Bác vẫn dùng, đôi tất vá đến hai, ba lần, cổ áo sờn rách đã mấy lượt lộn trong lại ra ngoài...
Nếp sinh hoạt, cách ăn mặc của Bác đã thành thói quen,Người luôn có ý thức trước những việc làm đó. Từ những năm tháng hoạt động ở nước ngoài, lúc ở Thái Lan, khi về Trung Quốc, về nước thời kỳ bí mật ở Cao Bằng hay khi làm chủ tịch nước, những năm tháng kháng chiến, lúc về thăm nông dân gặt hái hay làm thượng khách ở nước ngoài , Bác luôn luôn với một tư thế giản dị, ung dung, tự tại, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh. Dù ở đâu, lúc nào, Bác cũng để lại ấn tượng tốt đẹp, một phong cách mẫu mực của một lãnh tụ. Hành trang Bác mang theo tự nói lên một điều chân thực: Làm chức càng cao càng phải giản dị. Làm Chủ tịch nước, Bác nhận lấy cho mình cái quyền được sống giản dị, bằng mức sống bình thường của người dân. Các đồng chí được giao nhiệm vụ phục vụ Bác, tìm mọi cách để lo cho Bác chu tất về mọi mặt. Nhưng Bác luôn có cái lý của Bác, thời kỳ chiến khu gian khổ Bác bảo chưa cần thiết, khi làm Chủ tịch nước Bác bảo dân còn nghèo.
Nhớ thời kỳ về bước ở hang Cốc Pó, Bác thường vào các bản làng thăm đồng bào, với bộ quần áo chàm, chân đi giày vải, trông như một ông Ké thực thụ. Khi về thủ đô Hà Nội, đọc bản Tuyên ngôn độc lập, các đồng chí trung ương may cho Bác bộ quần áo bằng vải kaki. Thời kỳ kháng chiến, Bác có thêm bộ “quân phục màu xanh”, Bác thương mặc lúc hành quân đi lẫn trong đoàn quân ra trận. Bác còn có thêm chiếc áo len cho ấm về mùa đông, chiếc áo khoác tránh mưa là chiến lợi phẩm của một đơn vị bộ đội tặng Bác. Trời nắng Bác thường dùng bộ “gụ Hà Đông”. Khi bước vào cõi vĩnh hằng, người vẫn mặc bộ quần áo kaki và đôi dép lốp cao su quen thuộc. Thời kỳ kháng chiến, đồ dùng của Bác có chiếc va li nhỏ đựng tài liệu, sách, và máy đánh chữ, quần áo tư trang cho vào một túi nhỏ. Các đoàn thể tặng Bác nhiều tư trang, đồ dùng, Bác thường đem làm tặng phẩm cho cá nhân, tập thể có thành tích hoặc đem bán đấu giá lấy tiền cho cách mạng.
Tư trang của Bác bao giờ cũng ở mức cần thiết cho sinh hoạt, nhưng Bác luôn luôn lo cho sự thiếu, đủ của từng người. Đến thăm thương binh, bác lo từng chiếc áo ấm cho họ. Lúc vào trại tù binh, thấy tù binh thiếu áo, Bác cũng lo áo cho họ, cử ngĩa đó làm bớt đi căng thẳng thù hận giữa con người với con người, của hai dân tộc. Trong gian khổ kháng chiến, Bác cùng chịu đựng đói, no, giá lạnh như người chiến sĩ. Không lo cho riêng mình, Bác lo cho chiến sĩ trước. Bác là người khởi xướng phong trào “mùa đông chiến sĩ” vận động nhân dân không những lo cái ăn mà còn lo cái mặc cho chiến sĩ. Ở hậu phương có ai có thành tích lo cho cái mặc ấm của các chiến sĩ Bác đều gởi thư khen ngợi.
Kháng chiến thắng lợi Bác trở về thủ đô, cách ăn mặc của Bác không thay đổi nhiều lắm. Bác thường dặn các đồng chí phục vụ khi giặt áo cho Bác thấy chỗ nào rách thì vá lại cho bác dùng, cho nên việc khâu vá quần áo cho Bác các đồng chí phục vụ cũng tự làm. Chỉ khi không tự làm được các đồng chí mới xuống nhà may nhờ làm giúp. Số lượng quần áo Bác ít nên phải thay dùng luôn. Bác thường đi nhiều nơi. Khi xuống đồng ruộng gặt lúa, chống hạn với bà con nông dân, quần áo của Bác thường lấm bùn. Khi đến thăm nhà máy, Bác thường xuống tận nơi làm việc của nông dân nên quần áo thường dính dầu mỡ chất xút, những chỗ đó dẫu giặt sạch nhưng cũng nhanh bị bủng. Thay cái mới Bác không chịu, Bác bảo khâu vá lại để Bác dùng. Ở những bộ quần áo đó, những vết mảng, vết vá đều gắn với kỷ niệm.
Thời kỳ Bác đi kháng chiến, trên đường hành quân, trong bộ quần áo xanh, Bác như một người lính, vai thắt bao gạo ngang lưng, mũ cài lá ngụy trang, khăn vắt vai hòa nhịp bước hành quân của bộ đội, dân công đi chiến dịch. Trên đường Bác gặp một ông cụ trong đoàn dân công. Hai người chuyện trò tâm đầu ý hợp, Bác khen ông cụ: “Cụ già còn phục vụ tiền tuyến cho con cháu noi theo”. Cụ kia khen Bác: “Tôi làm sao bì được vơi Cụ, Cụ râu tóc đã bạc mà vẫn chiến sĩ Bạch đầu quân”. Hai cụ vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ, Khi lội qua suối, cụ dân công bị trượt chân, Bác vội đỡ kịp thời nên cụ không bị ngã, nhưng chiếc đỉnh ở đầu đòn gánh vướng vào làm rách áo Bác. Cụ dân công vội cảm ơn: “thật là em ngã anh nâng”. Cả hai cụ cùng cười vui vẻ. Còn vết mạng ở đầu gối là kỷ niệm ở Ngòi Thìa, Tân Trào. Hôm đó Bác đi ngựa, khi đến chỗ vòng ngoặt gấp có cây tre chắn lối, ngựa phi nhanh nên Bác chưa kịp ghìm cương, ngựa dừng đột ngột khiến Bác mất đà bị té ngã nhưng may Bác phản xạ nhanh nên chỉ xước đầu gối. Vết xước bị rách vải và chảy máu. Khi mọi người chưa kịp đến thì Bác đã đứng dậy, chân Bác cà nhắc. Còn vết khâu ở gần gấu áo là lần Bác về chống hạn, Bác cùng đồng chí tỉnh ủy tát nước gầu dai, nhưng đồng chí tỉnh ủy không biết tát nước cứ long ngóng chân tay làm gấu áo Bác bị rách, phải vá lại. Bác bảo “Làm cán bộ lãnh đạo nông nghiệp thì phải biết cách lao động của nông dân”, rồi Bác tập cho đồng chí tát nước.
Có lần Bác đi thăm một nhà máy, Bác xuống tận tổ công nhân đang cho chạy máy, Bác đến hỏi han công việc, chất xút bắn vào áo, tạo thành nhiều vết khác màu áo, Bác bảo đồng chí phục vụ khắc phục làm cho vết xút và màu áo gần giống nhau, và chiếc áo lại dùng được bình thường. Tất cả những áo quần đó đều mang vết nên không thể giấu Bác mà thay cái mới được, thay cái khác là Bác biết, Bác phê bình ngay. Đồng chí Cần, chuyên lo ăn uống, quần áo cho Bác. Đồng chí tâm cỡ người như Bác, đồng chí may vừa là Bác mặc vừa. Quần áo thường ngày Bác thích màu gụ, nên khi may xong đồng chí mang sang xí nghiệp Tô Châu nhuộm gụ. Bộ nào hơi cũ là đồng chí thay bộ khác cùng kiểu, cùng màu nên Bác không biết. Một thời gian sau Bác thấy quần áo vẫn mới. Bác bèn đánh dấu rất kín và phát hiện ra là đồng chí đã đổi quần áo của Bác. Bác liền phê bình, từ đó rất khó thay đổi quần áo của Bác. Áo Bác dùng lâu, giặt đi giặt lại nhiều lần nên cổ áo bị sờn và rách dần, khi mọi người đề nghị Bác cho thay cái mới, Bác bảo “Cả cái áo mới bị sờn chỗ cổ mà vứt đi thì không được, chú chịu khó tháo rồi lộn trong ra ngoài, may lại vẫn lành như mới’. Làm theo ý Bác được mấy lần, sau không thể “khắc phục” được nữa Bác mới cho thay cái mới.
Đôi bít tất Bác đi cũng vậy, bị thủng ở đầu ngón chân Bác cũng bảo vá lại cho Bác dùng, vì không biết làm thế nào nên xuống nhờ các cô ở Bộ nội vụ giúp. Các cô đề nghị thay đổi khác cho Bác nhưng Bác dặn bít tất của Bác chỉ hỏng mũi còn các chỗ khác vẫn nguyên lành, chỉ nhờ các cô khâu lại, nếu đem đổi đôi khác là Bác không dùng đâu. Khi Bác dùng lại đôi tất, khen các cô khéo tay, Bác nói “Chú xem, chỉ cần chịu khó một tí là có một đôi bít tất như mới”. Lần sau, đôi bít tất đó thủng hai chỗ trước và sau, rồi lại lần nữa, các cô phải khâu lại đến ba lần. Bác thường dùng khăn mặt vuông, vì khăn mặt vuông tiết kiệm hơn khăn mặt hình chữ nhật, mỗi khi dùng xong Bác có thói quen phơi lên dây, giữ cho hai phép dưới bằng nhau. Bác tìm mấy hòn quậy nhỏ xếp vào hộp xà phòng, khi dùng xong Bác để xà phòng lên những hòn cuội, xà phòng mau khô, nên tiết kiệm.
Chị Liên là người được đồng chí Cần nhờ may vá giúp Bác Chị kể lại, khi làm việc này mới thực sự hiểu Bac giản dị và tiết kiệm đến chừng nào. Bác có chiếc áo gối vải màu xanh hòa bình, miếng vá này chồng lên miếng vá kia, mỗi lần chiếc áo gối vá lại cho Bác, chị lại không kìm được nước mắt, không cầm vững kim để khâu lại được. Chị nơi với đồng chí Cần “Anh đừng bắt tôi vá áo gối cho Bác nữa. Tôi thương Bác lắm, anh có cách gì thay áo gối cho Bác. Đồng chí Cần nói “ Tôi đã nhiều lần đề nghị Bác thay cái khác nhưng Bác chưa đồng ý. Chị chịu khó vá lại giúp tôi”. Những lúc đó chị hình dung Bác như thấu hiểu long người mẹ hiền ở thôn quê tần tảo lo cho các con từng miếng cơm, manh áo trong cảnh thiếu túng. Bác là hiện thân của người mẹ Việt Nam: Đối với mọi người, dẫu ở vị trí công tác nào Bác cũng giáo dục tinh thần biết quý trọng con người ở ý thức tiết kiệm, đó là thước đo đạo đức của cán bộ. Đối với anh em phục vụ Bác chân tình mà nghiêm khắc trong giáo dục tiết kiệm.
Đôi dép cao su của Bác đã đi vào thơ ca, nhạc họa, hiện thân trong đời sống nhân dân như một huyền thoại, gắn liền với cuộc đời vĩ đại, đức tính giản dị, ý chí kiên cường, bền bỉ cùng dân tộc trên đường trường chinh vạn dặm vì độc lập tự do của Tổ quốc. Đôi dép của Bác được cắt từ lốp ô tô quân sự, chiến lợi phẩm của trận tập kích địch ở Việt Bắc. Đôi dép được cắt vừa chân Bác, hai quai trước to bản kiểu quai vắt chéo, vừa êm vừa chắc chắn khi lội suối, trèo đèo, vượt đường trơn, dốc cao. Thấy tiện, dễ sử dụng lại hiệu quả, Bác cho phổ biến trên toàn mặt trận thay thế dần giày vải, dép rơm, dép mo cau,…Nhân chuyến hành quân đi chiến dịch, Bác thấy ai cũng đi đôi dép cao su vượt suối băng đèo thoăn thoắt, Bác nói vui: “ Như vậy Bác cháu ta cùng có đôi hài cao su vạn dặm, chúng ta muốn đi đâu cũng được.”
Khi về Hà Nội, Bác vẫn dùng dép cao su. Đôi dép Bác dùng lâu ngày vẹt cả đế, quai bị tuột luôn, đóng đinh găm quai nhiều mà vẫn bị tuột, có kiên trì và khéo tay mới làm lại được, khi sửa xong vẫn thấy dùng được là Bác cứ dùng. Thấy dép Bác cũ, hỏng nhiều, các đồng chí phục vụ đề nghị thay đôi khác, Bác không chịu. Anh em bàn “kế hoạch” làm một đôi khác thật giống đôi dép Bác đang đi, chỉ có khác là chắc, bền hơn,lợi dụng thời cơ thay vào.
Hôm đầu Bác đi Bác không nói gì, anh em tưởng việc đã êm, nào ngờ sáng hôm sau Bác hỏi sao lại đổi dép của Bác, an hem đành thưa thật với Bác. Bác ôn tồn bảo: “ Các chú biết lỗi nhận lỗi là tốt, đôi dép cũ của Bác nếu chịu khó sửa vẫn dùng được, nếu lần sau mua sắm cái gì cho Bác, các chú phải nói cho Bác biết”. Anh em tưởng Bác nói thế là đã chấp nhận đôi dép, nhưng Bác vẫn giữ đôi dép đó mặc dầu đã sửa nhiều lần, vì nó là kỷ niệm bên Bác từ những ngày gian khổ. Bác còn có một ước mơ nữa là cùng đôi dép đó vào thăm đồng bào miền Nam là Bác thỏa ước nguyện.
Một lần Bác đến thăm một đơn vị hải quân,các chiến sĩ lần đầu gặp Bác, ai cũng muốn được gần Bác nên chen chúc nhau làm tuột quai dép của Bác. Bác bảo chú nào khéo tay sửa lại cho Bác. Ai cũng giành lấy để giúp Bác, thế rồi đôi dép được chuyền tay nhau những không ai sửa được vì đôi dép đã quá vét mòn, đã đóng đỉnh mấy lần rồi, xâu vào nó lại tuột ra. Có người nhanh chân kịp lấy búa và đinh sửa lại cho Bác. Có người yêu cầu Bác đổi dép khác, Bác bảo: “Dép đã sửa xong, khi nào không sửa được hẵng hay, giờ mua đôi khác không cần thiết, vẫn dùng được sao vứt đi, dân ta còn nghèo, mỗi người kể cả Chủ tịch nước cũng phải tiết kiệm.”
Có mẩu chuyện vui về đôi dáp của Bác. Lần đó xem phim, tất cả mọi người ngồi bệt xuống mặt đất, Bác để dép ngay ở phía trước để khi về tiện lấy và không nhầm lẫn. Xem phim xong Bác cùng mọi người chụp ảnh. Cô gái ngồi cạnh Bác thấy đôi dép đã cũ, không biết dép Bác, sợ xấu mất ảnh, vươn người với tới định cất đi. Bác nhanh tay hơn với trước, vội cất ra sau và nói vui: “Ờ đúng rồi, phải giấu nó đi chứ vào ảnh hỏng ảnh mất.”
Bác có thói quen, khi đã đi dép là cúi xuống kéo quai hậu cẩn thận, vừa dễ đi, chắc chắn, dép không kêu làm mất tác phong của người đứng đắn, và dép mòn cũng mòn đều, không mòn vẹt một bên, hai quai trước cũng đỡ hỏng. Ở Bác, đi dép cũng là một nét văn hóa.
Đầu năm 1958, đi thăm Ấn Độ, Bác vẫn đi đôi dép thường ngày. Mọi người trong đoàn thấy thế rất ái ngại nên bàn nhau mang theo một đôi giầy vải. Lên máy bay nhân lúc Bác ngủ, thay đôi dép bằng đôi giày vải. Khi thức giấc Bác hỏi dép, anh em trả lời Bác dép đã để dưới khoang máy bay. Khi xuống sân bay, Bác yêu cầu lấy dép để Bác đi, Bác bảo đừng lo gì cả, đất nước Ấn Độ cũng nghèo như nước mình, mới có độc lập nên còn nhiều vất vả. Bác đi dép có bít tất thế là rất tốt, họ không chê mình đâu. Nhân dịp này Bác muốn gần gũi với nhân dân lao động Ấn Độ. Hôm sau trên các trang báo lớn Ấn Độ đều hết lời ca ngợi Bác là vị Chủ tịch nước dân chủ nhất thế giới, ca ngợi đôi dép Bác Hồ là một huyền thoại. Hôm Bác đến một ngôi chùa, Bác cởi để dép ở ngoài, các phóng viên được dịp tha hồ quay phim, chụp ảnh đôi dép huyền thoại đó.
Lo cho dân, Bác không chỉ ngồi ở bàn giấy rồi nghe báo cáo, mà Bác trực tiếp xuống tận cơ sở đến với từng người lao động để hiểu rõ hơn tình hình thực tế. Đi đâu Bác cũng chỉ dùng xe “Pabeda” do nhân dân Liên Xô gửi tặng. Xe dùng lâu ngày nên đã cũ và hay hỏng vặt, văn phòng đề nghị Bác đổi xe khác tốt hơn, Bác không đồng ý, Bác bảo: “Ai thích đi nhanh, thích êm thì đổi, còn Bác thì không”. Có hôm đến giờ đi công tác, xe không nổ máy được, Bác ôn tồn bảo đồng chí lái xe: “Máy móc cũng có lúc trục trặc. Chú cứ bình tĩnh sửa, sửa xong Bác cháu đi cũng kịp”, mấy phút sau xe mới nổ máy được, Bác cười vui vẻ và nói: “Thế là xe vân còn tốt”.
Ở Bác, tiết kiệm là hành trang trong cuộc đời. Thật cảm động khi biết rằng, bản di chúc của Bác đã đi vào lịch sử dân tộc được Bác viết ở mặt sau tờ tin hàng ngày của Việt Nam Thông tấn xã.
Hành trang của Bác – của một vị lãnh tụ, giản dị như hành trang của một người dân bình thường, bởi Bác sống không chỉ cho riêng mình.
(Theo Bác Hồ - một mẫu mực về sự giản dị vè khiêm tốn,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014)
Số tiền nhỏ - Ý nghĩa lớn
Cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào thời kỳ khó khăn. Toàn dân hăng hái mua công trái để ủng hộ kháng chiến.
Ngày mồng 10 tháng 5 năm 1951, Bác Hồ viết thư gửi các cháu học sinh trường Việt Bắc:
Biết các cháu nhịn ăn, quét chợ, hái củi, bán bánh tiết kiệm dành dụm được 216, 445 đồng mua công trái – Bác thân ái gửi lời khen ngợi các cháu nồng nàn yêu nước.
Việc các cháu xung hong làm thì các cháu học sinh trường khác cũng sẽ làm được, số tiền tuy nhỏ nhưng các cháu học sinh ra sức lao động để lấy tiền mua công trái thì có ý nghĩa to.
Bác muốn biết các cháu sinh hoạt như thế nào? Học tập thế nào? Thi đua thế nào? Tăng gia sản xuất thế nào? Bác gửi lời thăm các thầy, cô giáo và cha mẹ các cháu và gửi các cháu nhiều cái hôn.
Bác Hồ
(Bác Hồ với thiếu nhi và phụ nữ, Nxb. Thanh niên, 2018).
Một mẫu mực về sự giản dị và khiêm tốn
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp của Người, sự thành lập và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng tháng tám và những chiến thắng của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến, công cuộc xây dựng về một xã hội cà cuộc sống mới trong điều kiện khó khăn không thể tưởng tượng nổi…Tất cả những điều đó sẽ được ghi nhớ mãi mãi như những trang đẹp nhất trong lịch sử loài người.
Cho phép tôi được dành một vài phút để nhó lại những kỷ niệm của cá nhân tôi về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xin cho phép tôi được nói về những kỷ niệm hoàn toàn có tính chất cá nhân, bởi vì đối với tôi, Việt Nam có rất nhiều ý nghĩa và trong nhiều năm, Việt Nam nói lên được rất nhiều điều đối với nhân dân Thụy Điển chùng tôi. Tôi đã từng là một học sinh Đại học Y khoa ở Pari trong khoản thời gian rừ năm 1946-1947, tức là vào khoảng thời gian nhân dân Việt Nam đang tiến hành giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến thứ nhất. Tôi đã được thấy chủ tịch Hồ Chí Minh trên lễ đài danh dự ngày 14-7-1946 ở Pari. Các bạn Việt Nam của tôi sau đó có nói rằng, chung quanh Người lúc ấy chỉ có ít người bạn Việt Nam, nhưng lại có quá nhiều kẻ thù, những thành viên của Chính phủ và quân đội đang âm mưu thiết lập lại thuộc địa của Pháp ở Việt Nam.
Lần đầu tôi gặp chủ tịch Hồ Chí Minh là vào thời kỳ tôi đi thăm Việt Nam lần thứ nhất vào đầu năm 1958. Lúc ấy, tôi được Người mời uống trà vào một buổi sáng tại ngôi nhà nhỏ rất giản dị của Người ngay cạnh Dinh Chủ Tịch. Lúc ấy tôi định phỏng vấn Người để dăng báo. Nhưng cuối cùng chính Người là người phỏng vấn tôi trong suốt 45 phút. Người muốn biết nhiều hơn nữa về phong trào công đoàn ở Thụy Điển,…Cuối cùng, Người hỏi tôi rằng điều gì đã tạo ra những ấn tượng sâu sắc nhất cho các nhà văn nước ngoài về các tác phẩm văn học của Thụy Điển. Trước đó vài ngày tôi đã có mặt ở sân bay khi Chủ tịch Hồ Chí Minh có cuộc viếng thăm mang tính chất Nhà nước sang Ấn Độ và Miến Điện. Người vừa xuống sân bay, lập tức các nhân vật trong Chính phủ, Đảng, đoàn ngoại giao đã lập tức vây quanh Người. Chỉ vài phút sau, Người đã đến trước máy phóng thanh. Tôi chờ Người đọc một bài diễn văn, nhưng chủ tịch, như các bạn đã biết, có một sự quan tâm đến công việc sản xuất và đây cũng là điều Người hay nói đến trong các bài viết cúng như diễn văn của mình. Người khoát tay mạnh và nói: “Nào bây giờ các đồng chí có thể về để chuẩn bị công tác cho tốt”. Đây là toàn văn diễn văn của Người. Mọi người cũng vui vẻ và lập tức thi hành mệnh lệnh của Người.
Mùa xuân năm 1967, tôi tham gia Ủy ba Quốc tế gồm năm người đi điều tra về các cuộc ném bom ở miền Bắc Việt Nam lúc ấy đang diễn ra ồ ạt ở khắp mọi nơi. Chúng tôi được thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Khi chúng tôi đang lần lượt giới thiệu từng người trong đoàn với Thủ tướng thì bất thình lình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có mặt. Tất cả chúng tôi, kể cả đồng chí Phạm Văn Đồng đều rất bất ngờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh ở lại với chúng tôi liền một giờ. Người nói những chuyện hệ trọng trong chiến tranh, thỉnh thoảng Người lại nói đùa về sự được mùa của năm 1890 (một thành viên trong ủy ban của chúng tôi sinh cùng năm với Chủ tịch Hồ Chí Minh). Người pha trò vè những chiếc máy ghi âm tồi tàn mà một trong số thành viên chúng tôi mang theo. Khi anh bạn tôi tìm cách ghi âm lại bức điện gửi nhân dân Mỹ thì cục pin bị tuột lăn lóc trên sàn nhà gây ra tiếng động như tiếng pháo cao xạ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không hề sốt ruột. Người theo dõi chúng tôi cố gắng lắp pin vào máy với sự chú ý và thích thú như một thanh niên trẻ.
Người ta đã nói nhiều rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về sự giản dị và khiêm tốn. Người nói thẳng và dùng từ ngữ đơn giản trong đời sống hằng ngày cũng như trong bài viết và trong các bài diễn văn của mình. Người không bao giờ quên nguồn gốc xuất thân cũng như kinh nghiệm người từng là một người lao động bình thường, Người có những tư tưởng cao thượng và tầm nhìn xa trông rộng. Người không bao giờ quên những nỗi thống khổ mà nhân dân Việt Nam và các dân tộc khác đã phải trải qua dưới áp bức của chủ nghĩa thực dân và áp bức của chủ nghĩa tư bản.
Chúng ta hãy cùng nhau tưởng nhớ nhà cách mạng vĩ đại này bằng cách tăng cường hơn nữa cuộc đấu tranh trên phạm vi toàn thế giới, vì độc lập dân tộc, hòa bình và chủ nghĩa xã hội.
(Theo Hồ Chí Minh, gương Người sáng mãi, Nxb.Văn học, 2008)
Ba lần gặp Bác, ba bài học lớn
Tại buổi giao lưu với tuổi trẻ các lực lượng vũ trang khu vực miền Trung và vùng 3 Hải quaan vào đầu tháng 3-1968, nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang Trần Thị ý đã xúc động kể lại kỷ niệm sâu sắc 3 lần được gặp Bác Hồ. Mỗi lần gặp Bác, theo chị đó là một lần được Người dạy bảo về đạo làm người, truyền thêm sức mạnh và niềm tin, chắp cánh cho chị suốt cả cuộc đời…
Bài học thứ nhất: Sự khiêm tốn không thừa
Tháng 1-1967, sau Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc, Đoàn đại biểu tỉnh Quảng Bình được Bác ưu tiên cho gặp riêng tại phủ chủ tịch hơn 30 phút. Không khí buổi gặp rất ấm cúng. Bác hỏi kỹ hoàn cảnh của từng người, thành tích lập được trong hoàn cảnh nào? Đời sống quê hương ra sao…Người dặn dò cả đoàn: Thành tích của các cô, các chú và các cháu, ngoài sự nỗ lực của cá nhân, còn có sự đóng góp và động viên to lớn của tập thể. Bởi vậy phải hết sức khiêm tốn, học tập phấn đấu thêm, tránh cho bằng được sư kiêu căng tự mãn. Cả đoàn đều rưng rưng, thầm hứa sẽ phấn đấu để xứng đáng hơn nữa, ai cũng mong cho thời gian gặp Bác được dài hơn. Thấy cả đoàn bịn rịn không muốn chia tay Bác, Bác nói: “Ở Quảng Bình có bài “Quảng Bình quê ta ơi” hay lắm- nghe nói cháu Lý có hứa với thủ tướng nếu được gặp Bác sẽ hát riêng cho Bác nghe. Bây giờ hãy hát cho Bác và Thủ tướng cùng nghe”. Chị Lý: “Thưa Bác, được gặp Bác cháu xúc động quá, cho phép cháu được cầm càng cho đoàn Quảng Bình hát tặng Bác và Thủ Tướng”. Bác gật đầu đồng ý…
Bài học thứ hai: Bất cứ việc gì cũng phải làm việc tỉ mỉ, chu đáo.
Tháng 7-1967, đang học văn hóa tại trường văn hóa quân khu, chị Lý nhân được tin vui: ra thủ đô để đi thăm Cu-ba. Trong thời gian làm thủ tục, một vinh dự nữa đến với chị, chị được gặp Bác lần hai.
Đêm trước khi được gặp Bác, chị không sao ngủ được. Sáng hôm sau, chị đã có mặt rất sớm để được đón đến Phủ Chủ Tịch. Vừa xuống xe thì đồng chí Vũ Kỳ thông báo: “Bác cho gọi cháu vào gặp. Bác đang làm cỏ ở vườn, cháu cứ vào”. Mừng quýnh, chị chạy lại chỗ Bác. Người dùng tay, vuốt mồ hôi trên trán và ân cần: “Lý đấy hả cháu, từ sau đại hội đến giờ, về làm những chi mà đen và gầy thế!”. Chị xúc động không nói nên làm, Bác nhanh nhẹn đi về phía nhà sàn. Đứng ngắm Bác không mỏi thấy Bác gài lệch chiếc cúc áo lụa mỏng, chị xin phép gài lại hàng cúc áo cho Bác. Hai Bác cháu ngồi lại dưới sàn. Bác hỏi: “Nghe nói cháu được đi nước ngoài phải không?”. Chị Lý: “Thưa Bác, được đi nhưng cháu lo quá.” Bác hỏi việc chuẩn bị thế nào, khi nghe chị kể được các chú may cho cái áo dài, giày da đen cao gót, những thứ mà chị chưa hề quen sử dụng, còn ngập ngừng và lúng túng lắm. Bác nói: “ Mình đi thăm nước bạn, cũng là để báo cáo kinh nghiệm chiến đấu của mình cho bạn học tập chưa không phải là tiểu thư đi du lịch. Để Bác nói cho chú Song Hào chuẩn bị bộ đồ bộ đội và dép cao su cho cháu”. Bác hỏi kỹ về việc chuẩn bị sổ tay, bút ghi chép. Khi nghe chị nói mang theo cây bút máy mà đại hội tặng, Bác bảo: “ Không được, bút mực không tiện, sang đấy hết mực thì biết lấy ở đâu? Tốt nhất là bút bi,nếu không có bút bi dùng bút chì gọt cả hai đầu”. Ngừng một lát, Bác nói tiếp: “Sang đó cháu phải ghi chép đầy đủ, về còn nói chuyện cho bên nhà nghe”. Bác dặn tiếp: “ Theo kinh nghiệm của Bác tiếp khách quốc tế, không tham nói dài, chuẩn bị cho kỹ nội dung thật xúc tích, dễ nghe, dễ hiểu, không cầu kỳ, kiểu cách”. Rồi như chợt nhớ, Bác hỏi tiếp: “ Ra Hà Nội cháu đi được những đâu, cháu có biết tượng Lý Tự Trọng ở phố nào, quay về hướng nào không?”. Thấy chị lúng túng, Bác quay lại nhắc mấy chú: “Cháu Lý ra Hà Nội, cong nhiều bỡ nhỡ, các chú phải hướng dẫn cho cháu biết Hà Nội có bao nhiêu phố phường, có di tích gì? Cho cháu đi chơi phố phường phải dẫn cháu đi bộ để cháu nhớ, tuyệt đối đừng dùng xe chở vì như thế chỉ như “cưỡi ngựa xem hoa”, không biết và không nhớ được những gì đâu”. Tạm biệt Bác ra về, lòng chị trào lên một nỗi niềm xúc động trước sự chăm lo chu đáo của Bác.
Bài học thứ ba: Tiết kiệm từ thứ nhỏ nhất
Sau chuyến đi Cuba về, Bác cho gọi chị Lý vào ăn cơm cùng, mâm cơm giản dị gồm có một tô canh bí đao, một đĩa cá bống nhỏ và một đĩa thịt gà. Bác nói vui: “ Hôm nay có khách, Bác giết gà để đãi khách đấy”. Trong bữa ăn, Bác luôn miệng giục và gắp thịt gà cho chị. Đang ăn cơm có báo động, bác cháu lại phải xuống hầm. Bữa cơm gián đoạn đến mấy lần. Khi đơm cơm cho Bác, chị sơ ý làm rơi mấy hạt cơm ra mâm, Bác nhặt lên cho vào bát và quay sang hỏi chị: “Quê mình bây giờ còn dùng đá để đập hạt sần(ngô) không!”. Chị thưa: “Có nơi còn dùng nhưng đại đa số nhân dân đã dùng công cụ khác như máy xay, cối xay tay.” Tuy không nói ra nhưng chị hiểu ý Bác nhắc nhở: Dân mình còn nghèo, phải hết sức tiết kiệm, hạt gạo là hạt ngọc chớ để lãng phí. Ăn cơm xong, Bác hỏi: “ Cháu học lớp mấy, đã biết đọc bản đò chưa? Ở Quảng Bình nơi nào bị đánh phá ác liệt nhất, cháu chỉ cho Bác xem”. Thấy chị lúng túng, Bác bảo: “Phải cố mà học, cán bộ quân sự phải biết bản đồ, còn phải hướng dẫn cho chiến sĩ”. Trước khi chia tay, Bác dặn dò: “Được đi thăm Cuba, được gặp Bác, được ăn cơm với Bác, về công tác cho tốt lập thành tích xuất sắc hơn, lần sau ra báo cáo thành tích Bác cho gặp nữa…”
(Theo Tạp chí Nhân chứng và sự kiện,
Số 53, tháng 5-1998)
Nghĩa nặng tình sâu
Năm 1957, Bác Hồ trở về thăm quê hương. Từ xa trên con đường đất đỏ, mọi người nhìn thấy xe Bác đến vừa đến vừa vỗ tay hoan hô vừa reo hò rộn rã.
Xe đến, Bác xuống vẫy chào bà con đến đón. Các cháu thiếu nhi ùa ra vây quanh Bác.
Các đồng chí lãnh đạo địa phương định đưa Bác vào nhà khách trước, nhưng Bác đã ngăn lại và nói:
- Tôi xa nhà, xa quê đã lâu, nay mới có dịp về, tôi phải về nhà tôi trước.
Nói rồi, Bác đi thẳng về ngôi nhà quê nôi. Bác dừng lại trước ngõ mới làm, đưa mắt nhìn bao quát khu vườn quen thuộc một lượt, rồi Bác đi men theo hàng rào râm bụt.
Bác bảo:
Vào đến sân, Bác nhìn ngôi nhà tranh quen thuộc của gia đình mình đã được đồng bào địa phương dựng lại trên nền đất cũ và nói:
- Tôi nhớ chỗ này còn có hàng cây.
Sau đó, Bác đi ra cửa sau chỉ vào chỗ hàng rào nói:
Khi ra ngõ gặp một cụ già, Bác nhìn cụ rất cảm động và hỏi:
- Có phải ông Điền không?
Bác đi nhanh tới cụ già và nắm lấy tay cụ hỏi bằng một giọng ấm áp:
- Anh Điền, anh vẫn khỏe chứ?
Bác nói chuyện với cụ Điền một hồi lâu, rồi sau đó đi sang quê ngoại.
Đứng giữa ngôi nhà tranh đơn sơ, nơi Bác đã sinh ra và lớn lên, Bác thân mật cùng trò chuyện cùng bà con quê nhà.
- Tôi xa quê hương đã năm mươi năm rồi. Thường tình người ta xa nhà, lúc trở về thường mừng mừng, tủi tủi. Nhưng tôi không buồn, không tủi. Tôi rất vui. Vui vì khi toi ra đi nhân dân còn là nô lệ, bị bọn đè quốc phong kiến đè đầu cưỡi cổ. Bây giờ tôi về đất nước đã được giải phóng, nhân dân đã được tự do.
Nói xong Bác đọc hai câu thơ: Quê hương nghĩa nặng tình sâu/Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.
(Theo Vũ Kỳ, Thư ký Bác Hồ kể chuyện
Nxb. Chính trị quốc gia, 2005)
Bác Hồ trong trái tim người Cơ Tu
Mùa thu năm 1964, tôi là thành viên trong Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam do đồng chí Trần Văn Thành dẫn đầu, ra thăm miền Bắc và dự hội nghị Quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam.
Một buổi sáng tháng Mười, xe đưa chúng tôi vào Phủ Chủ Tịch. Giữa lòng Thủ đô mà cảnh vật có những nét giống núi rừng quê hương.
Đoàn chúng tôi vừa xuống xe đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân. Bác ôm hôn thắm thiết đồng chí Trần Văn Thành và từng người trong đoàn.
Chúng tôi xúc động và tràn ngập vui sướng theo chân Bác đến dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa thơm và nắng ấm. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc Cơ Tu, Bác cười bảo:
- Cháu đúng là con gái dân tộc, giữ được bản sắc dân tộc mình.
Bác bảo tôi ngồi cạnh Bác. Vui mừng, sung sướng và xúc động xen lẫn lòng tôi. Lần đầu tiên được gặp Bác, chúng tôi không ngăn nổi xúc động. Chị Ngần, chị Cao và tôi đều bật khóc. Bác dịu dàng nhìn chúng tôi và nói:
- Các cháu gái đừng khóc, gặp Bác thì phải vui chứ. Các cháu hãy kể chuyện đánh Mĩ của bà con ta ở tiền tuyến cho Bác nghe.
Chúng tôi lau nhanh nước mắt. Cả đoàn chúng tôi quây quần bên Bác. Bác rơm rớm nước mắt khi nhìn em Hồ Văn Bột mang đầy thương tích do bom napan của giặc Mĩ gây nên. Bác âu yếm bảo em Bột hãy giữu gìn sức khỏe và tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ ở miền nam cho toàn thế giới biết.
Rời Bác quay sang tôi, trìu mến hỏi:
- Cháu là người dân tộc Cơ Tu, cháu có biết nói tiếng Khinh không?
- Dạ, thưa Bác, cháu nói được tiếng Kinh ạ.- tôi lễ phép đáp.
Bác bảo tôi kể cho Bác nghe tình hình sản xuất và chiến đấu của đồng bào, tình hình đời sống của bà con dân tộc về phong trào thanh niên, phụ nữ, bộ đội du kích ở vùng người Cơ Tu,Ve, nơi tôi sinh sống và hoạt động.
Tôi thưa tiếp Bác là đồng bào Cơ Tu cũng như đồng bào các dân tộc khác rất mong muốn đất nước được độc lập, thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà để được sớm đón Bác vô.
Nghe theo lời kêu gọi của Bác, tất cả đồng bào các dân tộc không ngại gian khổ, không tiếc hy sinh, không giữ chồng con, mọi người kiên quyết chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Bác chú ý lắng nghe tôi kể những mẩu chuyện. Ánh mắt Bác càng vui khi tôi kể những gương chiến đấu dũng cảm, mưu trí của các thanh niên, thiếu niên cùng các cô, bác đánh giặc, lập nhiều chiến công xuất sắc. Bác khen ngợi đồng bao, bộ đội, cán bộ các dân tộc, các cụ phụ lão, các cháu thiếu nhi và nhi đồng miền Nam luôn đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu anh dũng, thắng lợi vẻ vang. Bác nói:
- Cuộc kháng chiến của đồng bào ta chống giặc Mỹ xâm lược là toàn dân, toàn diện. Tre, già, gái, trai đều đánh giặc giỏi, sản xuất giỏi, đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đều giỏi.
Sống giữa không khí đầm ấm chan hòa tình thương bao la của Bác đối với quân và dân miền Nam, những kỷ niệm về tấm lòng của bà con các dân tộc đối với Bác giờ đây dồn dập, trỗi dậy trong tim tôi.
Cây rừng bao nhiêu lá thì đồng bào và phụ nữ các dân tộc đối với Bác có bao nhiêu ân tình. Tấm lòng của đồng bào các dân tộc đối với Bác bao giờ cũng trong như dong nước Đắc Pring, mãi chảy xuôi về dòng.
Gần một tiếng đồng hồ, Bác thân mật tiếp chúng tôi. Bác ân cần hỏi thăm từng người như người cha đối với đàn con yêu quý lâu ngày mới gặp lạ. Bác dàng phần lớn thời gian còn lại hỏi tỷ mỉ về tình hình đời sống, chiến đấu, sản xuất. Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương yêu mênh mông của Bác cho đồng bào miền Nam đang đoàn kết một lòng, chiến đấu với giặc Mỹ đến cùng.
(Theo Bác Hồ với đất Quảng, Nxb.Chính trị quốc gia, 2000)
Giờ này miền Nam nổ sung
Tết Mậu Thân năm 1968 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuốc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Tết năm ấy, do điều kiện sức khỏe, Bác Hồ đi nghỉ và chữa bệnh ở nước ngoài. Tuy ở xa Tổ quốc nhưng Bác luôn luôn theo dõi sát những thành tích và thắng lợi của đồng bào chiến sĩ cả nước, nhất là những tin chiến thắng từ chiến trường miền Nam.
Tối hôm 30 Tết, Bác cùng đồng chí giúp việc ngồi trong căn phòng vắng để theo dõi tin tức trên đài và đón giao thừa. Khi nghe đài tiếng nói Việt Nam tiếng pháo nổ tiễn năm Đinh Mùi và mừng năm Mậu Thân vừa dứt thì thơ chúc Tét của Bác được truyền đi khắp mọi miền của Tổ quốc:
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam - Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên!Toàn thắng ắt về ta!
Bác Hồ yên lặng đón giao thừa. Tiếng Bác trên đài hòa cùng tiếng nhác hùng tráng như một nguồn động viên lớn lao với chiến sĩ cả nước.
Từ trong căn phòng nhỏ ấy, lời Bác nói một cách khe khẽ nhưng nghe rất rõ: “Giờ đây miền Nam đang nổ súng”.
Thì ra trong lúc này, không phải Bác chỉ ngồi để nghe tiếng pháo nổ, mừng năm mới mà chính Bác đang hướng về Tổ Quốc, hướng về đồng bào chiến sĩ đang chiến đấu hi sinh ngoài mặt trận.
Sang sớm hôm mồng một Tết Mậu Thân, Bác nhận được tin “ Cả miền Nam đều nổ sung”. Kẻ thù hung ác của dân tộc bị một đòn đau bất ngờ, choáng váng.
Bác Hồ vui trong niềm vui chiến thắng của chiên sĩ, đồng bào cả nước.
(Theo Thư ký Bác Hồ kể chuyện - Vũ Kỳ, Nxb.Chính trị Quốc gia, 2005)
Thời gian quý báu lắm
Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khoá V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ là 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người vẫn chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”.Cũng về giờ giấc, trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí sĩ quan cấp tướng đến làm việc với Bác chậm 15 phút, tất nhiên là có lý do: Mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác bảo:
- Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan không chuẩn bị đủ phương án, nên chú không giành được chủ động”.
Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp.
Bác hỏi:
- Chú đến muộn mấy phút?
- Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!
- Chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.
Năm 1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh em trí thức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Sắp đến giờ lên đường bỗng trời đổ mưa xối xả. Các đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị cho hoãn đến một buổi khác. Có đồng chí còn đề nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác… Nhưng bác không đồng ý:
- Đã hẹn thì phải đến, đến cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì đến bao giờ? Thà chỉ mình bác và vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cả lớp phải chờ uổng công!
Thế là Bác lên đường đến thăm lớp chỉnh huấn đúng lịch trình trong tiếng reo hò sung sướng của các học viên…Bác Hồ của chúng ta quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời Bác không để bất cứ ai đợi mình. Sự quý trọng thời gian của Bác thực sự là tấm gương sáng để chúng ta học tập.
Đôi dép Bác Hồ - Lối sống giản dị
Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên đường công tác, Bác nói vui với các cán bộ đi cùng:
- Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa... Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được.
Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép...
Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy... Các chiến sĩ cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin” Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được”.
Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ cảnh vệ lập mẹo dấu dép đi, để sẵn một đôi giầy mới...
Máy bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa:
- Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi... Thưa Bác....
- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự - Bác ôn tồn nói.
Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi...
Trong suốt thời gian Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim... rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép... làm tổ cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.
Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” ấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
- Thôi, các cháu dẫm làm tụt quai dép của Bác rồi...
Nghe Bác nói, mọi người dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên:
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa...
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ...
Thấy vậy, các chiến sĩ cảnh vệ trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi...Bác cười nói:
- Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra:
- Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác...Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến...
Bác phải giục:
- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ.Anh chiến sĩ, lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
- Cháu, để cháu sửa dép...Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:
- Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ...
Bác nhìn các chiến sĩ nói:\
- Các cháu nói đúng... nhưng chỉ đúng có một phần... Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì nó còn ‘’thọ’’ lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên... Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo..
Ba chiếc ba lô - Sự công bằng
Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công tác, có hai đồng chí đi cùng. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:
- Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.
Khi mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:
- Các chú đã chia đều rồi chứ? Hai đồng chí trả lời:
- Thưa Bác, rồi ạ. Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người dừng chân, Bác đến chỗ đồng chí bên cạnh, xách chiếc ba lô lên.
- Tại sao ba lô của chú nặng mà Bác lại nhẹ? Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có chăn, màn. Bác không đồng ý và nói:
- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người. Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.
Giữ lời hứa
Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, là người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh của Người được lưu giữ trong trái tim mỗi người Việt Nam. Hơn bốn mươi năm Bác đã đi xa nhưng Bác vẫn mãi là tấm gương sáng cho hàng triệu người dân Việt Nam và thế giới.
Hồi ở Pác Pó, Bác Hồ sống rất chan hòa với mọi người. Một hôm được tin Bác đi công tác xa, một trong những em bé thường ngày quấn quýt bên Bác chạy đến cầm tay Bác thưa:
- Bác ơi, Bác đi công tác về nhớ mua cho cháu một chiếc vòng bạc nhé!
Bác cúi xuống nhìn em bé âu yếm, xoa đầu em khẽ nói:
- Cháu ở nhà nhớ ngoan ngoãn, khi nào Bác về Bác sẽ mua tặng cháu.
Nói xong Bác vẫy chào mọi người ra đi. Hơn hai năm sau Bác quay trở về, mọi người mừng rỡ ra đón Bác. Ai cũng vui mừng xúm xít hỏi thăm sức khỏe Bác, không một ai còn nhớ đến chuyện năm xưa. Bỗng Bác mở túi lấy ra một chiếc vòng bạc mới tinh trao tận tay em bé – bây giờ đã là một cô bé. Cô bé và mọi người cảm động đến rơi nước mắt. Bác nói:
- Cháu nó nhờ mua tức là nó thích lắm, mình là người lớn đã hứa thì phải làm được, đó là "chữ tín". Chúng ta cần phải giữ trọn niềm tin với mọi người.
[1]Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, Thuỷ điện Hoà Bình, Thuỷ điện Trị An; Khu dầu khí Vũng Tầu; các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên; nhà máy phân lân Lâm Thao; các nhà máy sợi Hà Nội, Vinh, Huế, Nha Trang; các nhà máy đường Lam Sơn, La Ngà; các nhà máy giấy Bãi Bằng, Tân Mai…
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.289
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.21
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr 36, nxb CTQG, Hà Nội, 2002
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.458
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội 2002, tr.294
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội 2002, tr.295
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.340
[9] Hồ Chí Minh:Sđd, t7, tr568
[10] Hồ Chí Minh:Sđd, t9, tr283
[11] Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Hà Nội, 1995, t5, tr.238
[12] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t8, tr149
[13].Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, tr 279
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.123
[15] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđ d, t.5, tr 297
[16]5 tổ chức chính trị - xã hội hiện nay của nước ta gồm: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam